ĐINH
VĂN QUẾ
THẠC SĨ LUẬT HỌC – TOÀ ÁN NHÂN
DÂN TỐI CAO
BÌNH LUẬN BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999
CHƯƠNG XII
CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH MẠNG, SỨC KHOẺ,
NHÂN PHẨM, DANH DỰ CỦA CON NGƯỜI
NHÀ
XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LỜI GIỚI THIỆU
Bộ luật hình sự đã được Quốc hội
khoá X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999, có hiệu lực thi hành
từ ngày 1 tháng 7 năm 2000 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1999). Đây
là Bộ luật hình sự thay thế Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung
bốn lần vào các ngày 28-12-1989, ngày 12-8-1991, ngày 22-12-1992 và ngày
10-5-1997.
Bộ luật hình sự năm 1999 không
chỉ thể hiện một cách toàn diện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta
trong giai đoạn hiện nay, mà còn là công cụ sắc bén trong đấu tranh phòng và
chống tội phạm, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm hiệu lực quản lý
của Nhà nước, góp phần thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
So với Bộ luật hình sự năm 1985,
Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định mới về tội phạm và hình phạt. Do đó
việc hiểu và áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội phạm và hình phạt
là một vấn đề rất quan trọng. Ngày 17 tháng 2 năm 2000, Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị số 04/2000/CT-TTg về việc tổ chức
thi hành Bộ luật hình sự đã nhấn mạnh: "Công tác phổ biến, tuyên truyền Bộ
luật hình sự phải được tiến hành sâu rộng trong cán bộ, công chức, viên chức,
chiến sỹ thuộc lực lượng vũ trang và trong nhân dân, làm cho mọi người năm được
nội dung cơ bản của Bộ luật, nhất là những nội dung mới được sửa đổi bổ sung để
nghiêm chỉnh chấp hành".
Với ý nghĩa trên, tiếp theo cuốn
“Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm
1999 (phần chung) Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản tiếp cuốn "BÌNH LUẬN BỘ LUẬT HÌNH SỰ
(PHẦN RIÊNG) CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG, SỨC KHOẺ, NHÂN PHẨM, DANH DỰ CỦA CON
NGƯỜI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999" của tác giả Đinh Văn Quế - Thạc sỹ Luật học, Phó
chánh toà Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao, người đã nhiều năm nghiên cứu, giảng dạy và cho công
bố nhiều tác phẩm bình luận khoa học về Bộ luật hình sự và cũng là người trực
tiếp tham gia xét xử nhiều vụ án về các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân
phẩm, danh dự con người.
Dựa vào các quy định của chương
XII Bộ luật hình sự năm 1999, so sánh với các quy định của Bộ luật hình sự năm
1985, đối chiếu với thực tiễn xét xử các vụ án hình sự, tác giả đã giải thích
một cách khoa học về các
các
tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người, đồng thời
tác giả cũng mạnh dạn nêu ra một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự ở nước ta
Xin trân trọng giới thiệu cùng
bạn đọc.
MỞ ĐẦU
Chương
XII Bộ luật hình sự năm 1999 quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
nhân phẩm, danh dự của con người gồm 30 Điều tương ứng với 30 tội danh khác
nhau. So với Chương II (phần tội phạm) Bộ luật hình sự năm 1985, thì Bộ luật
hình sự năm 1999 quy định nhiều hơn 10 Điều (Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ có 20
Điều) và thêm hai tội mới. Ngoài ra, có một số tội được tách ra làm nhiều điều
luật, có tội phạm Bộ luật hình sự năm 1985 quy định ở chương khác, nay được đưa
về Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người
cho phù hợp với loại khách thể bị xâm phạm như: Tội dâm ô đối với trẻ em Bộ luật
hình sự năm 1985 quy định tại Điều 202b; tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt
trẻ em, Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tại Điều 149.
Các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 đối
với các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người đầy đủ
hơn, chi tiết hơn, phản ảnh được thực trạng công tác đấu tranh phòng chống loại
tội phạm này trong thời gian qua; giúp cho việc điều tra, truy tố mà đặc biệt
là việc xét xử loại tội phạm này sẽ thuận lợi hơn trước đây.
Tuy
nhiên, do những quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về các tội xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người còn nhiều điểm chưa được hướng dẫn
và thực tiễn xét xử nhiều trường hợp phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng đã
gặp không ít khó khăn trong việc áp dụng Bộ luật hình sự để truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Nay Bộ luật hình sự năm 1999 lại quy định thêm nhiều điểm mới hơn, nếu
không được hiểu thống nhất sẽ càng khó khăn hơn trong việc áp dụng Bộ luật hình
sự khi xét xử các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con
người.
Để
góp phần tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 1999, qua thực tiễn xét xử và tổng kết
công tác xét xử các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con
người trong những năm qua, chúng tôi xin cung cấp cho bạn đọc những vẫn đề có
tính lý luận và thực tiễn nhằm gúp bạn đọc, đặc biệt là các cán bộ công tác
trong các cơ quan bảo vệ pháp luật các dấu hiệu pháp lý cơ bản đối với các tội
xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người được quy định tại
Chương XII Bộ luật hình sự năm 1999.
Chương
một
NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM
TÍNH MẠNG, SỨC KHOẺ, NHÂN PHẨM, DANH DỰ
CON NGƯỜI
So
với Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
nhân phẩm, danh dự con người thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định thêm 10 Điều
( Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ có 20 Điều ) trong đó có 7 Điều được tách từ các
tội danh cũ thành tội danh độc lập (Điều 94 - Tội giết con mới đẻ; Điều 95 -
Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh; Điều 99 - Tội vô ý
làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính; Điều 105
- Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh; Điều 106 - Tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng; Điều 107 - Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong khi thi hành công vụ; Điều 109 - Tội vô ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy
tắc hành chính ) có một Điều Bộ luật hình sự năm 1985 quy định ở Chương các tội
xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính và một Điều
Bộ luật hình sự năm 1985 quy định ở Chương các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia
đình và các tội phạm đối với người chưa thành niên, nay Bộ luật hình sự năm
1999 đưa về Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con
người ( Điều 116 - Tội dâm ô đối với trẻ em và Điều 120 - Tội mua bán, đánh
tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em); hai Điều quy đinh hai tội danh mới ( Điều 117 -
Tội lây truyền HIV cho người khác và Điều 118 - Tội cố ý truyền HIV cho người
khác).
Các
hình phạt bổ sung trước đây Bộ luật hình sự năm 1985 quy định chung trong một
điều luật (Điều 118), nay quy định ngay trong từng điều luật, nếu xét thấy tội
phạm đó cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội. Việc quy định
này, không chỉ phản ảnh trình độ lập pháp cao hơn, mà còn có tác dụng to lớn
trong việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội, tránh được việc bỏ
quên hoặc áp dụng không chính xác hình phạt bổ sung đối với người phạm tội. Một
số tội trước đây không quy định hình phạt bổ sung này Bộ luật hình sự năm 1999
quy định thêm hình phạt bổ sung, một số hình phạt bỏ sung không còn phù hợp Bộ
luật hình sự năm 1999 không quy định đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người, đồng thời quy định thêm một số hình phạt bổ
sung để đáp ứng yêu cầu phòng ngừa laọi tội phạm này.
Các
điều luật vẫn quy định lại các tội danh cũ, các tội danh được tách ra hoặc các
tội danh mới cũng được bổ sung, sửa đổi đầy đủ hơn, hoàn chỉnh hơn trước.
- Đối với tội giết người (Điều 93), được cấu tạo lại thành
ba khoản, tách khoản 3 chuyển thành Điều 95, tách khoản 4 thành Điều 94. Khoản
1 vẫn là những trường hợp phạm tội có những tình tiết định khung tăng nặng,
nhưng quy định thêm các tình tiết: "giết
trẻ em; giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thấy giáo, cô giáo của mình;
để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; thuê giết người hoặc giết người thuê".
Khoản 2 quy định trường hợp giết người không có các tình tiết quy định ở khoản
1, nhưng mức cao nhất của khung hình phạt chỉ có mười lăm năm, còn khoản 3 quy định hình phạt bổ sung.
-
Đối với tội giết con mới đẻ
(Điều 94), chỉ có một điểm khác là hình phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm ( khoản 4 Điều 101 Bộ luật hình
sự năm 1985 là một năm).
-
Đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95) được cấu tạo thành hai
khoản. Khoản 1 có khung hình phạt từ sáu tháng đến ba năm ( khoản 3 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985 từ sáu tháng đến
năm năm); khoản 2 là trường hợp giết
nhiều người có khung hình phạt từ ba năm đến bảy năm ( quy định này mới,
nặng hơn khoản 3 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985).
-
Đối với tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 96) cũng được cấu tạo
thành hai khoản. Khoản 1 có khung hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm. So với Điều 102 Bộ luật hình sự
năm 1985 thì hình phạt cải tạo không giam giữ nặng hơn, nhưng hình phạt tù thì
lại nhẹ hơn ( Điều 102 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định cải tạo không giam giữ
đến một năm, hình phạt tù đến ba năm). Khoản 2 quy định trường hợp giết nhiều người có khung hình phạt từ hai năm đến năm năm ( quy định này mới, nặng
hơn so với khoản Điều 102 Bộ luật hình sự năm 1985).
-
Đối với tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 97) về bản chất tuy không
có gì mới so với Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng tên tội danh và cách
hành văn được viết lại cho chính xác và phù hợ với thực tiễn xét xử như: thay
thuật ngữ làm chết người thay cho
thuật ngữ xâm phạm tính mạng. Điều luật được cấu thành ba khoản. Khoản 1 có
khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm, nặng hơn so với khoản 1 Điều
103 Bộ luật hình sự năm 1985; khoản 2 có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm, cũng năng hơn
so với đoạn hai khoản 1 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1985; khoản 3 quy định
hình phạt bổ sung.
-
Đối với tội vô ý làm chết người
(Điều 98), chỉ có một thay đổi nhỏ đó là đoạn hai của khoản 1 Điều 104 được quy
định thành khoản 2 Điều 98.
- Đối với tội vô ý làm chết người do vi phạm
quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính ( Điều 99) là tội được tách
từ khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1985 và được cấu tạo thành ba khoản. Khoản 1 có khung hình phạt từ
một năm đến sáu năm, nặng hơn đoạn
một khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1985; khoản 2 là trường hợp làm chết
nhiều người có khung hình phạt từ năm
năm đến mười hai năm, nhẹ hơn đoạn
hai khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1985; khoản 3 quy định hình phạt bổ
sung.
-
Đối với tội bức tử
(Điều 100) được cấu tạo thành hai khoản. Khoản 1 có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm, nặng hơn Điều 105
Bộ luật hình sự năm 1985.; khoản 2 là trường hợp làm nhiều người tự sát có khung hình phạt từ năm năm đến mười hai năm,
là cấu thành mới hoàn toàn so với Điều 105 Bộ luật hình sự năm 1985.
-
Đối với tội xúi dục người khác tự sát (Điều 101) được cấu tạo thành hai khoản. Khoản 1 có
khung hình phạt từ sáu tháng đến ba
năm, nhẹ hơn Điều 106 Bộ luật hình sự năm 1985.; khoản 2 là trường hợp làm nhiều người tự sát có khung hình phạt từ
hai năm đến bảy năm, là cấu thành mới hoàn toàn so với Điều 106 Bộ luật
hình sự năm 1985.
-
Đối với tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính
mạng Điều 102) được cấu tạo thành ba khoản. Về nội
dung không có gì mới so với Điều 107 Bộ luật hình sự năm 1985, chủ yếu chỉ viết
lại khoản 2 thành hai điểm a và b. Về hình phạt cải tạo không giam giữ quy định
ở khoản 1 có mức tối đa là hai năm;
khoản 3 quy định hình phạt bổ sung.
-
Đối với tội đe doạ giết người
(Điều 103) được cấu tạo lại thành hai khoản và bổ sung nhiều dấu hiệu mới vào
cấu thành tăng nặng. Khoản 1 có khung hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến bai năm, nặng hơn Điều 108 Bộ luật hình sự năm
1985; khoản 2 là cấu thành tăng nặng, hoàn toàn mới so với Điều 108 Bộ luật
hình sự năm 1985 vơí các tình tiết định khung như: đối với nhiều người;đối với người thi hành công vụ hoặc vì lý do công
vụ của nạn nhân; đối với trẻ em và để che giấu hoặc trốn tránh việc xử lý về
một tội phạm khác.
-
Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104) được cấu tạo lại theo
hướng: Lấy tỷ lệ thương tật làm căn cứ xác định trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội. Tuy nhiên, do yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống loại tội
phạm này nên nhà làm luật quy định thêm một số trường hợp tuy hành vi cố ý gây
thương tích cho người khác có tỷ lệ thương tật dưới mức quy định vẫn bị truy
cứu trách nhiệm hình sự. Các trường hợp phạm tội này cũng là dấu hiệu định
khung hình phạt. Trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1
Điều 104 Bộ luật hình sự, có nhiều trường hợp tương tự như các tình tiết định
khung hình phạt của tội giết người, có trường hợp đã được quy định tại khoản 2,
khoản 3 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985, có trường hợp thực tiễn xét xử đã
được tổng kết và hướng dẫn.
Có
thể tóm tắt các dấu hiệu cơ bản của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác như sau:
Nếu
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ
thương tật từ 11% đến 30% thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều
104 Bộ luật hình sự;
Nếu
tỷ lệ thương tật của người bị hại dưới 11% thì phải thuộc một trong các trường
hợp quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự, thì người
phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình
sự. Trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 có các
trường hợp sau đây là quy định mới: "dùng
hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người; gây cố tật
nhẹ cho nạn nhân; phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều
người; đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người
khác không có khả năng tự vệ; đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy
giáo, cô giáo của mình; có tổ chức; trong thời gian đạng bị tạm giữ,tạm giam
hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; thuê gây thương tích
hoặc gây thương tích thuê".
Nếu
tỷ lệ thương tật của người bị hại từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 31% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy
định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội
bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự có khung
hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù.
Nếu
tỷ lệ thương tật của người bị hại từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người, hoặc
từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm
k khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ năm năm đến
mười lăm năm, nhẹ hơn so với khoản 3
Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985.
Nếu
dẫn đến chết nhiều người hoặc trong
trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì người phạm tội bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 104 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ mười
năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân
. Đây là quy định mới năng hơn so với Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985.
-
Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ( Điều 105), là tội phạm được
tách từ khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 và được cấu tạo lại cho phù
hợp với thực tiẽn xét xử và các hướng dẫn của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở
trung ương. Khoản 1 quy định tỷ lệ thương tật của người bị hại phải từ 31% đến
60% thì người có hành vi có ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mới bị truy cứu trách
nhiệm hình sự ; điều văn của điều luật quy định tương tự như trường hợp giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Cấu tạo thêm khoản 2 với
hai tình tiết định khung là "đối với
nhiều người và gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà
tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người, hoặc trong trường hợp
đặc biệt nghiêm trọng khác", có khung hình phạt từ một năm đến năm
năm.
-
Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106), là tội phạm được tách từ khoản 4 Điều
109 Bộ luật hình sự năm 1985 và cũng được cấu tạo lại cho phù hợp với thực tiẽn
xét xử và các hướng dẫn của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở trung ương. Khoản 1
quy định tỷ lệ thương tật của người bị hại phải từ 31% trở lên hoặc dẫn đến
chết người. Cấu tạo thêm khoản 2 với tình tiết định khung là "phạm tội đối với nhiều người",
có khung hình phạt từ một năm đến ba năm.
-
Đối với tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
khi thi hành công vụ
(Điều 107) là tội phạm được tách ra từ khoản 2 Điều 103 Bộ luật hình sự năm
1985 và cũng được cấu tạo lại cho phù hợp với thực tiẽn xét xử và các hướng dẫn
của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở trung ương. Khoản 1 quy định tỷ lệ thương
tật của người bị hại phải từ 31% trở lên thì người phạm tội mới bị truy cứu
trách nhiệm hình sự. Cấu tạo thêm khoản 2 với tình tiết định khung là "phạm tội đối với nhiều người"
có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù và khoản 3 quy định hình phạt bổ
sung.
-
Đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 108 ) quy định cụ thể tỷ
lệ thương tật là từ 31% trở lên thay cho dấu hiệu thương tích nặng, tổn hại
nặng và tăng mức hình phạt cải tạo không giam giữ từ một năm lên hai năm mà
Điều 110 Bộ luật hình sự năm 1985 đã quy định, đồng thời quy định thêm khoản 2
về hình phạt bổ sung.
-
Đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 109) là tội phạm được tách
từ khoản 2 Điều 110 Bộ luật hình sự năm 1985 cũng được quy định cụ thể tỷ lệ
thương tật là từ 31% trở lên thay cho dấu hiệu thương tích nặng, tổn hại nặng
và mức cao nhất của khung hình phạt là ba
năm nhẹ hơn khoản 2 Điều 110 Bộ luật hình sự năm 1985, đồng thời quy định thêm
khoản 2 về hình phạt bổ sung.
-
Đối với tội hành hạ người khác
(Điều 110) quy định thêm khoản hai với hai tình tiết định khung là "đối với người già, trẻ em, phụ nữ có
thai hoặc người tàn tật và đối với nhiều người".
-
Đối với tội hiếp dâm
(Điều 111), bỏ tình tiết "có nhiều tình tiết..."; quy định thêm các
dấu hiệu trong cấu thành, đó là "đe
doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn
nhân"; quy định thêm một số tình tiết định khung mới, đó là "đối với người mà người phạm tội có
trách nhiệm chăm sóc; đối với nhiều người; gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn
nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% ( khoản 2); gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở
lên; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội (khoản 3).
-
Đối với tội hiếp dâm trẻ em
(Điều 112 ), quy định thêm một số tình tiết định khung hình phạt như: " gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân
mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% (khoản 2); đối với nhiều người; ); gây
tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên biết mình
bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội (khoản
3). Về hình phạt, mức cao nhất không có gì mới nhưng mức thấp nhất ở khoản 2 là
mười hai năm, ở khoản 3 là tù hai mươi năm, ở khoản 4 là mười hai năm.
-
Đối với tội cưỡng dâm
(Điều 113) bỏ tình tiết "có nhiều tình tiết..."; quy định thêm một số tình tiết định khung
hình phạt như: " gây tổn hại cho sức
khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; cưỡng dâm nhiều người; (khoản 2); gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở
lên biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội (khoản 3). Về hình phạt, mức cao nhất không có
gì mới nhưng mức thấp nhất ở khoản 2 là ba
năm, ở khoản 3 là bảy năm. quy định
thêm khoản 4 là trường hợp cưỡng dâm
người chưa thành niên. ( được tách từ khoản 1 Điều 113a Bộ luật hình sự năm
1985 quy định về tội cưỡng dâm người chưa thành niên)
-
Đối với tội cưỡng dâm trẻ em
( Điều 114). Tội phạm này được tách từ tội cưỡng dâm người chưa thành niên quy
định tại Điều 113a Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, được cấu tạo lại theo
hướng nặng hơn trường hợp cưỡng dâm người chưa thành niên, bỏ tình tiết
"có nhiều tình tiết..."; thêm
một số tình tiết định khung mới. Khoản 1 có khung hình phạt từ năm năm đến mười năm; khoản 2 thay tình tiết "gây tổn hại nặng cho sức
khoẻ của nạn nhân" bằng tình tiết "
gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; khoản 3 thêm tình tiết "đối với nhiều người; biết mình bị nhiễm HIV
mà vẫn phạm tội" và thay tình tiết "gây tổn hại rất nặng cho sức
khỏe của nạn nhân" bằng tình tiết "
gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên";
khoản 4 quy định hình phạt bổ sung.
-
Đối với tội giao cấu với trẻ em
( Điều 115) bỏ tình tiết "có nhiều tình tiết..."; thêm một số tình
tiết định khung hình phạt; ở khoản 2 thêm tình tiết "đối với nhiều người" và thay tình tiết "gây tổn hại
nặng cho sức khoẻ của nạn nhân" bằng tình tiết " gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31%
đến 60%; ở khoản 3 thêm tình tiết "
biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội và gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân
mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên".
-
Đối với tội dâm ô đối với trẻ em
( Điều 116) bỏ tình tiết "có nhiều tình tiết..."; thêm tình tiết định
khung ở khoản 3 là "gây hậu quả đặc
biệt nghiêm trọng" và thêm khoản 4 quy định hình phạt bổ sung.
-
Đối với tội lây truyền HIV cho người khác ( Điều 117) và tội cố ý truyền HIV cho người khác
( Điều 118) là hai tội danh mới.
-
Đối với tội mua bán phụ nữ
( Điều 119) thêm các tình tình tiết định khung, đó là "mua bán phụ nữ vì mục đích mại dâm; có tính chất chuyên nghiệp;
mua bán nhiều lần"; bỏ tình tiết "tái phạm nguy hiểm" quy
định thêm khoản 4 về hình phạt bổ sung.
-
Đối với tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em ( Điều 120) quy định thêm hành
vi chiếm đoạt trẻ em và trong điều
văn của điều luật thêm cụm từ dưới bất kỳ
hình thức nào cho phù hợp với thực tiễn đáu tranh phòng chống tội phạm này
trong thời gian vừa qua. So với Điều 149 Bộ luật hình sự năm 1985 thì tội phạm
này nghiêm khắc hơn. Khoản 1 có khung hình phạt từ ba năm đến mười năm,
khoản 2 có khung hình phạt từ mười lăm
năm đến hai mươi năm hoặc tù chung
thân, đồng thời quy định thêm các tình tiết định khung hình phạt như: Vì động cơ đê hèn; để sử dụng vào mục đích
vô nhân đạo; để sử dụng vào mục đích mại dâm. Khoản 3 quy định hình phạt bổ
sung.
-
Đối với tội làm nhục người khác
( Điều 121) quy định thêm các tình tiết định khung hình phạt như: Phạm tội nhiều lần; đối với nhiều người; đối
với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình và quy định thêm
khoản 3 về hình phạt bổ sung.
-
Đối với tội Vu khống
( Điều 122) được viết lại theo hướng quy định các hành vi ngay trong cấu thành
cơ bản, đồng thời cụ thể hoá các trường hợp phạm tội theo khoản 2 của điều luật
như: Có tổ chức; lợi dụng chức vụ quyền
hạn; đối với nhiều người; đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình; đối với người thi hành công vụ; vu
khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Khoản 3 quy định hình phạt bổ sung.
Chương
hai
CÁC TỘI PHẠM CỤ THỂ
1.
TỘI GIẾT NGƯỜI
(ĐIỀU 93)
Giết
người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp
luật.
Điều
luật chỉ quy định giết người mà không quy định cố ý giết người, vì từ
"giết" đã bao hàm cả sự cố ý. Do đó, nếu có trường hợp nào tước đoạt
tính mạng người khác không phải do cố ý thì không phải là giết người. Điều luật
cũng không miêu tả các dấu hiệu của tội giết người, nhưng về lý luận cũng như thực
tiễn xét xử chúng ta có thể xác định các dấu hiệu của tội giết người như sau:
A.
CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI GIẾT NGƯỜI
1.
Về phia người phạm tội
a) Hành vi khách quan của tội
phạm bao gồm cả hành động và không hành động.
Trường
hợp hành động thường được biểu hiện như: đâm, chém, bắn, đấm đá, đốt cháy, đầu
độc, bóp cổ, treo cổ, trói ném xuống vực, xuống sông, chôn sống v.v...
Trường
hợp không hành động ít gặp nhưng vẫn có thể xảy ra. Ví dụ: Một Y tá cố tình không cho người bệnh uống thuốc theo chỉ
định của bác sỹ để người bệnh chết mặc dù người Y tá này phải có nghĩa vụ cho
người bệnh uống thuốc.
b) Hành vi tước đoạt tính mạng
của người khác phải là hành vi trái pháp luật, tức là luật cấm mà cứ làm, luật
bắt làm mà không làm.
Như
vậy, sẽ có trường hợp tước đoạt tính mạng người khác được pháp luật cho phép
như: hành vi tước đoạt tính mạng của người khác trong trường hợp phòng vệ chính
đáng, trong tình thế cấp thiết hoặc thi hành một mệnh lệnh hợp pháp của nhà
chức trách. Ví dụ: người cảnh sát thi
hành bản án tử hình đối với người phạm tội .
Hành
vi trái pháp luật phải là nguyên nhân gây ra hậu quả chết người, tức là có mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Thực tiễn xét xử không phải bao giờ
cũng dễ dàng xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả chết người.
Vì vậy, khi xác định mối quan hệ nhân qủa giữa hành vi và hậu quả phải xuất
phát từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về cặp phạm trù nguyên nhân
và kết quả với những đặc điểm sau:
-
Hành vi là nguyên nhân gây ra chết người phải là hành vi xảy ra trước hậu quả
về mặt thời gian. Ví dụ: sau khi bị
bắn, nạn nhân chết. Tuy nhiên không phải bất cứ hành vi nào xảy ra trước hậu
quả chết người đều là nguyên nhân mà chỉ những hành vi có mối quan hệ nội tại,
tất yếu với hậu quả thì mới là nguyên nhân. Mối quan hệ nội tại tất yếu đó thể
hiện ở chỗ: khi cái chết của nạn nhân có cơ sở ngay trong hành vi cả người phạm
tội ; hành vi của người phạm tội đã mang
trong nó mầm mống sinh ra hậu quả chết người; hành vi của người phạm tội trong những điều kiện nhất định phải dẫn đến
hậu quả chết người chứ không thể khác được. Ví
dụ: một người dùng súng bắn vào đầu của người khác, tất yếu sẽ dẫn đến cái
chết cho người này. Nếu một hành vi đã mang trong đó mầm mống dẫn đến cái chết
cho nạn nhân, nhưng hành vi đó lại được thực hiện trong hoàn cảnh không có
những điều kiện cần thiết để hậu quả chết người xảy ra và thực tế hậu quả đó
chưa xảy ra, thì người có hành vi vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết
người nhưng ở giai đoạn phạm tội chưa đạt. Ví
dụ: A có ý định bắn vào đầu B nhằm tước đoạt tính mạng của B, nhưng đạn
không trúng đầu của B mà chỉ trúng tay nên B không chết.
-
Hậu quả chết người có trường hợp không phải do một nguyên nhân gây ra mà do
nhiều nguyên nhân cùng gây ra, thì cần phải phân biệt nguyên nhân nào là nguyên
nhân chủ yếu, nguyên nhân nào là thứ yếu. nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân mà
nếu không có nó thì hậu quả không xuất hiện, nó quyết định những đặc trưng tất
yếu chung của hậu quả ấy, còn nguyên nhân thứ yếu là nguyên nhân chỉ quyết định
những đặc điểm nhất thời cá biệt không ổn định của hậu quả; khi nó tác dụng vào
kết quả thì chỉ có tính chất hạn chế và phục tùng nguyên nhân chủ yếu. Ví dụ: có nhiều người cùng đánh một
người, người bị đánh chết là do đòn tập thể, nhưng trong đó có hành vi của một
người là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cái chết cho nạn nhân, còn hành vi của
những người khác chỉ là nguyên nhân thứ yếu. Dù là chủ yếu hay thứ yếu thì tất
cả những người có hành vi đều phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người,
nhưng mức độ có khác nhau.
-
Trong thực tế chúng ta còn thấy hậu quả chết người xảy ra có cả nguyên nhân
trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp. Nguyên nhân
trực tiếp là nguyên nhân tự nó sinh ra kết quả, nó có tính chất quyết
định rõ rệt đối với hậu quả, còn nguyên nhân gián tiếp là nguyên nhân chỉ góp
phần gây ra hậu quả. Thông thường, hành vi là nguyên nhân trực tiếp mới phải
chịu trách nhiệm đối với hậu quả, còn đối với hành vi là nguyên nhân gián tiếp
thì không phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả. Ví dụ: A cho B mượn súng để đi săn, nhưng B đã dùng súng đó để bắn
chết người. Tuy nhiên, trong vụ án có đồng phạm thì hành vi của tất cả những
người đồng phạm là nguyên nhân trực tiếp.
-
Khi xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả cần phân biệt nguyên
nhân với điều kiện. Điều kiện là những hiện tượng khách quan hoặc chủ quan, nó
không trực tiếp gây ra hậu quả, nhưng nó đi với nguyên nhân trong không gian và
thời gian, ảnh hưởng đến nguyên nhân và bảo đảm cho nguyên nhân có sự phát
triển cần thiết để sinh ra hậu quả. Nếu một người có hành vi không liên quan
đến việc giết người và người đó không biết hành vi của mình đã tạo điều kiện
cho người khác giết người, thì không phải chịu trách nhiệm về tội giết người. Ví dụ: A cho B đi nhờ xe Honda, nhưng A
không biết B đi nhờ xe của mình để đuổi kịp C và giết C.
c) Hành vi tước đoạt tính mạng
người khác là hành vi được thực hiện do cố ý.
Cố
ý giết người là trường hợp trước khi có hành vi tước đoạt tính mạng người khác,
người phạm tội nhận thức rõ hành động
của mình tất yếu hoặc có thể gây cho nạn nhân chết và mong muốn hoặc bỏ mặc cho
nạn nhân chết.
Sự
hình thành ý thức của người có hành vi giết người được biểu hiện khác nhau:
-
Dạng biểu hiện thứ nhất là trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm đến tính mạng
người khác, người phạm tội thấy trước
được hậu quả chết người tát yếu xảy ra và mong muốn cho hậu quả đó phát sinh.
Loại biểu hiện này rõ nét. Biểu hiện ý thức này ra bên ngoài thường được biểu
hiện bằng những hành vi như: chuẩn bị hung khí (phương tiện), điều tra theo dõi
mọi hoạt động của người định giết, chuẩn bị những điều kiện, thủ đoạn để che giấu tội phạm v.v... còn gọi là cố ý
có dự mưu. Tuy nhiên, cũng có trường hợp trước khi hành động, người phạm tội không có thời gian chuẩn bị nhưng họ vẫn thấy
trước được hậu quả tất yếu xảy ra và cũng mong muốn cho hậu quả phát sinh. Ví dụ: A và B cãi nhau, sẵn có dao trong
tay (vì A đang thái thịt lợn) A dùng dao chém liên tiếp nhiều nhát vào đầu B
làm B chết ngay tại chỗ. Trường hợp này gọi là cố ý đột xuất.
-
Dạng biểu hiện thứ hai là trước khi có hành vi nguy hiểm đến tính mạng người
khác, người phạm tội chỉ nhận thức được
hậu quả chết người có thể xảy ra chứ không chắc chắn nhất định xảy ra vì người
phạm tội chưa tin vào hành vi của mình
nhất định sẽ gây ra hậu quả chết người. Bản thân người phạm tội cũng rất mong muốn cho hậu quả xảy ra, nhưng
họ lại không tin một cách chắc chắn rằng hậu quả ắt xảy ra. Ví dụ: A gài lựu đạn nhằm giết B vì A đã
theo dõi hàng ngày B thường đi qua đoạn đường này, nhưng A không tin vào khả
năng gây nổ của lựu đạn hoặc chưa chắc B nhất định đi qua và có đi qua chưa
chắc B đã vấp phải lưu đạn do A gài.
-
Dạng biểu hiện thứ ba là trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm đến tính mạng
của người khác, người phạm tội cũng chỉ
thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra tuy không mong muốn, nhưng có ý
thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Ví dụ: A
mắc điện trần vào cửa chuồng gà với ý thức để kẻ nào vào trộm gà sẽ bị điện
giật chết, nhưng lại làm chết người nhà của A vào chuồng gà nhặt trứng gà đẻ.
Người
phạm tội giết người đều có chung một mục đích là tước đoạt tính mạng con người,
nhưng động cơ thì khác nhau. Động cơ không phải là yếu tố định tội giết người,
nhưng trong một số trường hợp nó là yếu tố định khung hình phạt.
Những
dấu hiệu khác như: thời gian. địa điểm, hoàn cảnh v.v... chỉ có ý nghĩa xác
định mức độ nguy hiểm đối với hành vi giết người, chứ không có ý nghĩa định
tội.
Chủ thể của tội giết người là bất
kỳ, nhưng phải là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và phải là người đủ
14 tuổi trở lên, vì tội giết người là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt
nghiêm trọng.
2.
Về phía nạn nhân
Người
bị giết, phải là người còn sống, vì tội giết người là tội xâm phạm đến tính
mạng con người. Nếu một người đã chết, thì mọi hành vi xâm phạm đến xác chết đó
không phải là hành vi giết người, nhưng giết một người sắp chết vẫn là giết
người.
Giết
một đứa trẻ mới ra đời cũng là giết người, nhưng phá thai, dù cái thai đó ở
tháng thứ mấy cũng không gọi là giết người, vì vậy giết một phụ nữ đang có thai
không phải là giết nhiều người.
Trường
hợp người phạm tội tưởng nhầm xác chết
là người đang còn sống mà có những hành vi như bắn, đâm, chém... với ý thức
giết thì vẫn phạm tội giết người. Khoa học luật hình gọi là sai lầm về đối
tượng.
B.
NHỮNG TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ CỦA TỘI GIẾT NGƯỜI
1. Giết nhiều người ( điểm a khoản 1 Điều 93)
Giết
nhiều người là trường hợp người phạm tội
có ý định giết từ hai người trở lên hoặc có ý thức bỏ mặc cho hậu quả
nhiều người chết xảy ra.
Về
trường hợp phạm tội này hiện nay cũng có nhiều ý kiến khác nhau, có quan điểm
cho rằng chỉ coi là giết nhiều người nếu có từ hai người chết trở lên, nếu
người phạm tội có ý định giết nhiều
người, nhưng chỉ có một người chết thì không coi là giết nhièu người. Quan điểm
này, theo chúng tôi không có cơ sở khoa học và thực tiễn. Bởi vì, thực tiễn xét
xử không ít trường hợp không có ai bị giết cả nhưng vẫn có người bị xét xử về
tội giết người. Đó là trường hợp giết người chưa đạt. Trong trường hợp giết
nhiều người cũng vậy, chỉ cần xác định người phạm tội có ý định giết nhiều người là thuộc trường
hợp phạm tội này rồi mà không nhất thiết phải có nhiều người chết mới là giết
nhiều người. Ví dụ: A có mâu thuẫn với gia đình B, nên A có ý định giết cả nhà
B. Nhằm lúc gia đình B đang quây quần bên mâm cơm, A rút chốt lựu đạn ném vào
chỗ cả nhà B đang ăn cơm, nhưng lựu đạn không nổ.
Tuy
nhiên, trường hợp người phạm tội có ý
thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra (lỗi cố ý gián tiếp) thì phải có từ hai người
chết trở lên mới gọi là giết nhiều người.
Như
vậy, nhiều người bị giết phải đều thuộc trường hợp quy định tại Điều 93 Bộ luật
hình sự thì người phạm tội mới bị coi là giết nhiều người và bị áp dụng điểm a
khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự.
Nếu
có hai người chết, nhưng lại có một người do lỗi vô ý của người phạm tội thì không coi là giết nhiều người mà thuộc
trường hợp phạm hai tội: "Giết người" và "vô ý làm chết
người". Ví dụ: A và B cùng uống rượu ở nhà A, "rượu vào lời ra" dẫn
đến hai người cãi lộn, A bực tức rút súng bắn B. Thấy A rút súng bắn mình, B
hoảng sợ bỏ chạy ra cửa; vừa lúc đó, con của A thấy hai người to tiếng chạy
vào, A nổ súng, đạn xuyên qua ngực B trúng vào đầu con của A; cả B và con của A
đều bị chết.
Nếu
có hai người chết, nhưng chỉ có một người thuộc trường hợp quy định tại Điều 93
Bộ luật hình sự còn người kia lại thuộc trường hợp trong trạng thái tinh thần
bị kích động mạnh hoặc do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, hoặc thuộc
trường hợp làm chết người trong khi thi hành công vụ thì không thuộc trường hợp
giết nhiều người mà tuỳ từng trường hợp cụ thể, người phạm tội bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội giết người quy định tại khoản 2 Điều 93 và một tội
khác ( giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh hoặc giết người
do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng...)
2.
Giết phụ nữ mà biết là có thai (
điểm b khoản 1 Điều 93)
Là
trường hợp người phạm tội biết rõ người
mình giết là phụ nữ đang có thai (không kể tháng thứ mấy). Nếu nạn nhân là
người tình của người phạm tội thì thuộc
trường hợp giết người vì động cơ đê hèn.
Nếu
người bị giết có thai thật, nhưng có căn cứ để xác định người phạm tội không
biết họ đang có thai thì cũng không thuộc trường hợp phạm tội giết phụ nữ mà
biết là có thai. Ví dụ: A là khách qua đường vào ăn phở trong tiệm phở của chị
H. A chê phở không ngon, chị H cũng chẳng vừa bèn nói lại: "ít tiền mà
cũng đòi ăn ngon, đồ nhà quê!" A bực tức lao vào đấm đá chị H liên tiếp.
Do bị đá đúng chỗ hiểm chị H đã chết sau đó vài giờ. Khi khám nghiệm tử thi mới
biết chị H đang có thai hai tháng.
Ngược
lại, trong trường hợp người phụ nữ bị giết không có thai, nhưng người phạm
tội tưởng lầm là có thai và sự lầm tưởng
này của người phạm tội là có căn cứ, thì
người phạm tội vẫn bị xét xử về tội giết
người trong tường hợp "giết phụ nữ mà biết là có thai". Ví dụ: K là
tên lưu manh cùng đi một chuyến ô tô với chị M. Do tranh giành chỗ ngồi nên hai
bên cãi nhau. K đe doạ: "Về tới bến biết tay tao!" Khi xe đến bến, K
thấy chị M đi khệnh khạng, bụng lại hơi to, K tưởng M có thai, vừa đánh chị M,
K vừa nói: "Tao đánh cho mày truỵ thai để mày hết thói chua ngoa".
Mọi người thấy K đánh chị M bèn can ngăn và nói: "Người ta bụng mang dạ
chửa đừng đánh nữa phải tội". Nhưng K vẫn không buông tha. Bị đá vỡ lá
lách nên chị M bị chết. Sau khi chị M chết mới biết là chị không có thai mà chị
giấu thuốc lá 555 trong người giả vờ là người có thai để tránh sự phát hiện của
các cơ quan chức năng. Biên bản khám nghiệm tử thi cũng kết luận là chị M không
có thai.
Giết
phụ nữ mà biết là có thai là dấu hiệu thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội
chứ không phải dấu hiệu khách quan như trường hợp phạm tội đối với phụ nữ có
thai quy định tại điểm h khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Trường hợp quy định
tại điểm h khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự chỉ cần xác định người bị hại là phụ
nữ có thai là đủ căn cứ xác định là tình tiết tăng nặng rồi không cần phải xác
định người phạm tội có biết hay không biết rõ người phụ nữ có thai hay không.
3.
Giết trẻ em (điểm
c khoản 1 Điều 93)
Giết
trẻ em là trường hợp người phạm tội đã cố ý tước đoạt tính mạng của trẻ em
Theo
Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì người dưới 16 tuổi là trẻ
em.
Giết
trẻ em được coi là trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự, không chỉ xuất
phát từ quan điểm bảo vệ trẻ em là bảo vệ tương lai của đất nước, bảo vệ lớp
người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn bảo vệ những người
không có khả năng tự vệ.
So
với tội giết người được quy định tại Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985 thì
trường hợp giết trẻ em quy định tại điểm c khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự năm
1999 là quy định mới nên chỉ áp dụng đối với người phạm tội thực hiện hành vi
kể từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000.
Khi
áp dụng tường hợp phạm tội này cần chú ý một số điểm sau:
-
Việc xác định tuổi của người bị hại là trẻ em là một yêu cầu bắt buộc của các
cơ quan tiến hành tố tụng. Hồ sơ vụ án nhất thiết phải có giấy khai sinh của
người bị hại là trẻ em, nêu không có giấy khai sinh thì phải có các tài liệu
chứng minh người bị hại là người chưa đến 16 tuổi. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử
có nhiều trường hợp việc xác định tuổi của người bị hại gặp rất nhiều khó khăn,
các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng hết mọi biện pháp nhưng vẫn không xác
định được tuổi của người bị hại. Vậy trong trường hợp này tính tuổi của người
bị hại như thế nào ? Hiện nay có hai ý kiến trái ngược nhau: ý kiến thứ nhất
cho rằng, nếu không biết ngày sinh thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó, nếu
không biết tháng sinh thì lấy tháng cuối cùng của năm đó, cách tính này là
không có lợi cho ngời phạm tội. Còn ý kiến thứ hai thì cho rằng, nếu không biết
ngày sinh thì lấy ngày đầu tiên của tháng đó, nếu không biết tháng sinh thì lấy
tháng cuối cùng của năm đó, cách tính này theo hướng có lợi cho người phạm tội.
Để có căn cứ xác định tuổi của người bị hại nhất là người bị hại lại là trẻ em,
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần có hướng dẫn cụ thể.1
-
Phạm tội đối với trẻ em nói chung và giết trẻ em nói riêng không phải là tình
tiết thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội mà là tình tiết khách quan, do đó
không cần người phạm tội phải nhân thức được hoặc buộc họ phải nhận thức được
đối tượng mà mình xâm phạm là trẻ em thì mới coi là tình tiết tăng nặng, mà chỉ
cần xác định người mà người phạm tội xâm phạm là trẻ em thì người phạm tội đã
bị coi là phạm tội đối với trẻ em rồi. 2
3.
Giết người đang thi hành công vụ (điểm
d khoản 1 Điều 93)
Đây
là trường hợp người bị giết là người đang thi hành công vụ, Tức là người bị
giết đang thực hiện một nhiệm vụ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao phó.
Nhiệm vụ được giao có thể là đương nhiên do nghề nghiệp quy định: cán bộ chiến
sĩ công an nhân dân đang làm nhiệm vụ bảo vệ, thầy thuốc đang điều trị tại bệnh
viện; thầy giáo đang giảng bài hoặc hướng dẫn học sinh tham quan, nghỉ mát;
thẩm phán đang xét xử tại phiên toà; cán bộ thuế đang thu thuế; thanh niên cờ
đỏ, dân quân tự vệ đang làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự ở nơi công cộng v.v...
Cũng
được coi là đang thi hành công vụ đối với nhưng người tuy không được giao nhiệm
vụ nhưng họ tự nguyện tham gia vào việc giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội trong một số trường hợp nhất định như: đuổi bắt người phạm tội bỏ trốn; can ngăn, hoà giải những vụ đánh
nhau ở nơi công cộng v.v...
Nạn
nhân bị chết phải là lúc họ đang làm nhiệm vụ, thì người phạm tội mới bị coi là phạm tội trong trường hợp
"giết người đang thì hành công vụ". Nếu nạn nhân lại bị giết vào lúc
khác thì không thuộc trường hợp giết người đang thi hành công vụ, mà tuỳ từng
trường hợp có thể là giết người bình thường hoặc thuộc trường hợp khác.
Nạn
nhân bị giết phải là người thi hành nhiệm vụ đúng pháp luật, nếu trái với pháp
luật mà bị giết thì người có hành vi giết người
không phải là "giết người đang thi hành công vụ". Ví dụ: một
người tự xưng là công an đòi khám nhà của người khác. Chủ nhà yêu cầu xuất
trình lệnh khám nhà, nhưng người này không đưa, dẫn đến hai bên xô xát và chủ
nhà đâm chết người này.
4.
Giết người vì lý do công vụ của nạn nhân( điểm d khoản 1 Điều 93)
Khác
với trường hợp giết người đang thi hành công vụ, nạn nhân bị giết trong trường
hợp này không phải lúc họ đang thi hành công vụ mà có thể trước hoặc sau đó.
Thông thường, nạn nhân là người đã thi hành một nhiệm vụ và vì thế đã làm cho
người phạm tội thù oán nên đã giết họ.
Ví dụ: A buôn thuốc phiện, bị tổ công tác của B (đội đặc nhiệm) bắt giữ, A đã
dùng mọi cách để B bỏ qua hành vi phạm tội của A nhưng B vẫn không đồng ý, nên
A đã giết B nhằm trốn tránh pháp luật.
Tuy
nhiên, có một số trường hợp người bị giết chưa kịp thi hành nhiệm vụ được giao,
nhưng người có hành vi giết người cho rằng nếu để người naỳ sống, nhiệm vụ mà
họ thực hiện sẽ gây ra thiệt hại cho mình, nên đã giết trước. Ví dụ: A làm nhà
trái phép, Uỷ ban nhân dân Quận B ra quyết định dỡ bỏ và giao cho Uỷ ban nhân
dân phường K thi hành. A đến nhà ông Chủ tịch phường xin hoãn, nhưng không được
nên đã bực tức lấy dao đâm chết ông Chủ tịch phường tại nhà riêng của ông.
4.
Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình (điểm đ khoản 1 Điều 93)
Đây
là trường hợp giết người mang tính chất phản trắc, bội bạc; giết người mà người
bị giết đáng lẽ người phạm tội phải có nghĩa vụ kính trọng. Việc nhà làm luật
coi trường hợp giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của
mình là trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự ( tình tiết định khung tăng
nặng) là xuất phát từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, truyền thống
tôn sư trọng đạo. Bộ luật hình sự năm 1985 không coi trường hợp phạm tội này là
tình tiết định khung hình phạt. Tuy nhiên trong một số trường hợp nếu người
phạm tội giết người có tính chất bội bạc phản trắc thì áp dụng tình tiết "
giết người vì động cơ đê hèn". Nay Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định
trường hợp giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình
là tình tiết định khung tăng nặng. Do đó Toà án chỉ áp dụng tình tiết này đối với
người thực hiện hành vi phạm tội kể từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000.
Ông,
bà bao gồm cả ông, bà nội; ông, bà ngoại. Cha, mẹ bao gồm cả cha, mẹ đẻ; cha,
mẹ nuôi; cha, mẹ vợ hoặc cha, mẹ chồng. Người nuôi dưỡng là những người tuy
không phải là ông, bà, cha, mẹ nhưng đã nuôi dưỡng người phạm tội từ bé, thường
là những người có hàng thân thích với người phạm tội như: chú, dì, cô, bác,
cậu, mợ... hoặc tuy không phải là người thân thích với người phạm tội, nhưng là
người chăm sóc, nuôi dưỡng người phạm tội trong các Trại mồ côi, Trại điều
dưỡng. Thầy, cô giáo của người phạm tội là người đã và đang dạy người phạm tội.
Tuy niên, trong trường hợp giết thầy, cô giáo phải xác định người phạm tội giết
thầy, cô giáo với động cơ phản trắc và người thầy, người cô đó phải là người có
một quá trình dạy dỗ nhất định đối với người phạm tội. Nếu vì động khác và
người thầy, người cô đó không có quá trình nhất định trong việc dạy dỗ người
phạm tội thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Ví dụ: Trần Văn Q là sinh
viên năm thứ tư Trường Đại học X. Do có mâu thuẫn với Bùi Đức T là giảng viên
của nhà trường vì T và Q đều yêu Vũ Thi C là học viên cùng lợp với Q. Tuy là
giảng viên, nhưng T chỉ hơn Q mấy tuổi và là học viên khoá trước được nhà
trường giữ lại làm giảng viên và không giảng ở lớp Q giờ nào. Vì không muốn cho
T yêu C, nên Q đã rủ một số học viên cùng lớp gây sự rồi đánh T bị trọng
thương, đưa vào bệnh viện cấp cứu thì chết.
5.
Giết người mà liền trước đó phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt
nghiêm trọng (điểm
e khoản 1 Điều 93)
Là
trường hợp trước khi giết ngươi, người phạm tội đã phạm một tội rất nghiêm
trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng3.
Ví dụ: A vừa sử dụng vũ khí cướp tài sản của B, đang bỏ chạy thì gặp C là người
mà y đã thù ghét từ trước, sẵn có vũ khí trong tay, A gây sự và giết chết B.
Tuy
chưa có giải thích hoặc hướng dẫn như thể nào là liền trước đó, nhưng qua thực
tiễn xét xử chỉ coi là liền trước hành vi giết người, nếu như tội phạm được
thực hiện trước đó về thời gian phải liền kề với hành vi giết người có thể
trong khoảng thời gian vài giờ đồng hồ hoặc cùng lắm là trong ngày, nếu tội
phạm người phạm tội thực hiện trước đó có khoảng cách nhất định không còn liền
với hành vi giết người thì không coi là giết
người mà liền trước đó phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm
trọng quy định tại điểm e khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự
Khác
với trường hợp giết người để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác ở chỗ: tội
phạm của người phạm tội trước khi giết
người không liên quan với tội giết người và phải là tội phạm rất nghiêm trọng
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng chứ không phải là tội phạm ít nghiêm trọng
hoặc tội phạm nghiêm trọng.
6.
Giết người mà ngay sau đó phạm một tội một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc
biệt nghiêm trọng (điểm
e khoản 1 Điều 93)
Trường
hợp giết người này cũng tương tự như trường hợp giết người mà liền trước đó
phạm một tội phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, chỉ
khác nhau ở chỗ: Tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng mà
người phạm tội thực hiện diễn ra ngay
sau đó chứ không phải ngay trước đó. Ví dụ: A vừa giết người đang chạy trốn thì
gặp B đi xe máy Draem II, A dùng vũ khí
khống chế cướp xe máy của B để chạy trốn. Cùng vì thế mà nhà làm luật
quy định trường hợp phạm tội này cùng trong mọt điểm với trường hợp giết người
mà liền trước đó phạm một tội phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt
nghiêm trọng (điểm e khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự)
Giết
người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc
tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại điểm e khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự,
về lý luận cũng như thực tiễn xét xử hay bị nhầm lẫn với trường hợp giết người
để thực hiện hoặc để che giấu tội phạm khác quy định tại điểm g khoản 1 Điều 93
Bộ luật hình sự. Để phân biệt hai trường hợp giết người này, chúng ta có sơ đồ
so sánh như sau:
điểm
g khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự
|
điểm
e khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự
|
-Tội phạm mà
người phạm tội thực hiện trước hoặc
sau tội giết người có thể là tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng
và cũng coa thể là tội nghiêm trọng và tội ít nghiêm trọng.
- Về thời gian,
tội phạm mà người phạm tội thực hiện
trước hoặc sau tội giết người có thể xảy ra trước đó hoặc sau đó một thời
gian ngắn, nhưng cũng có thể cách tội giết người một thời gian dài.
- Tội phạm mà
người phạm tội thực hiện trước hoặc
sau tội giết người có liên quan mật thiết đến tội giết người (không giết
người thì không thực hiện được tội phạm đó hoặc không che giấu được tội phạm
đó)
|
- Tội phạm mà
người phạm tội thực hiện trước hoặc
sau tội giết người chỉ là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng
- Tội phạm mà
người phạm tội thực hiện phải xảy ra
liền trước đó hoặc ngay sau đó, không có khoảng cách.
- Tội phạm mà
người phạm tội thực hiện trước hoặc
sau tội giết người không liên quan đến tội giết người.
|
7.
Giết người để thực hiện tội phạm khác (điểm g khoản 1 Điều 93)
Đây
là trường hợp sau khi giết người, người phạm tội lại thực hiện một tội phạm
khác. Tội phạm khác là tội phạm bất kỳ do Bộ luật hình sự quy định, không phân
biệt đó là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm
trọng hay tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tất nhiên tội phạm khác ở đây không
phải là tội giết người.
Về
thời gian, tội phạm được thực hiện sau khi giết người, có thể là liền ngay sau
khi vừa giết người hoặc có thể xảy ra sau một thời gian nhất định. nhưng khác
với trường hợp "giết người mà liền ngay sau đó lại phạm một tội nghiêm
trọng khác" (điểm e khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự) ở chỗ tội phạm được
thực hiện sau khi giết người ở trường hợp này có liên quan mật thiết với hành
vi giết người. Hành vi giết người là tiền đề, là phương tiện để thực hiện tội
phạm sau, nếu không giết người thì không thực hiện được tội phạm sau. Ví dụ: Giết
người để cướp của, giết người để khủng bố, giết người để trốn đi nước ngoài
v.v...
8.
Giết người để che giấu tội phạm khác (điểm g khoản 1 Điều 93)
Đây
là trường hợp trước khi giết người, người có hành vi giết người đã thực hiện
một tội phạm và để che giấu tội phạm đó nên người phạm tội đã giết người. Thông
thường sau khi phạm một tội có nguy cơ bị lộ, người phạm tội cho rằng chỉ có giết người thì tội phạm mà y
đã thực hiện mới không bị phát hiện. Người bị giết trong trường hợp này thường
là người đã biết hành vi phạm tội hoặc cùng người phạm tội thực hiện tội phạm.
Giữa
hành vi giết người của người phạm tội với tội phạm mà y đã thực hiện phải có
mối liên hệ với nhau, nhưng mối liên hệ ở đây không phải là tiền đề hay phương
tiện như trường hợp "giết người để thực hiện tội phạm khác" mà chỉ là
thủ đoạn để che giấu tội phạm.
Về
thời gian, tội phạm mà người có hành vi giết người muốn che giấu có thể xảy ra liền ngay trước
với tội giết người, nhưng cũng có thể xảy ra trước đó một thì gian nhất định.
Nếu xảy ra liền trước đó lại là tội nghiêm trọng và không có mối liên hệ với
tội giết người thì không thuộc trường hợp phạm tội này mà thuộc trường hợp
"giết người mà liền trước đó lại phạm một tội nghiêm trọng khác (điểm e
khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự ).
9.
Giết người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân (điểm h khoản 1 Điều 93)
Đây
là trường hợp giết người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân thay thế hoặc để
bán cho người khác dùng vào việc thay thế bộ phận đó. Trường hợp giết người này
thực tiễn chưa xảy ra, nhưng trên thế giới nhiều nước đã có tình trạng giết
người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân nhằm thay thế bọ phận đó cho mình hoặc
cho người thân của mình hoặc bán để người khác thay thế bộ phận đó. Tham khảo
pháp luật các nước, đòng thời dự kiến trong tình hình phát triển của xã hội có
thể có trường hợp giết người này nên Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định
trường hợp giết người này là tình tiết định khung tăng nặng để đề phòng thực tế
có thể xảy ra.
Nếu
vì quá căm tức mà người phạm tội sau khi giết người đã lấy bộ phận cơ thể của
nạn nhân để nhằm mục đích khác cho hả dận thì không thuộc trường hợp phạm tội
này. Ví dụ: Sau khi giết người, người phạm tội đã mổ bụng, lấy gan nạn nhân cho
chó ăn.
10.
Thực hiện tội phạm một cách man rợ (điểm i khoản 1 Điều 93)
Tính
chất man rợ của hành vi giết người thể hiện ở chỗ, làm cho nạn nhân đau đớn,
quằn quại trước khi chết như: mổ bụng, moi gan, khoét mắt, chặt chân tay, xẻo
thịt, lột da, tra tấn cho tới chết...Các hành vi trên, người phạm tội thực hiện trước khi tội phạm hoàn thành, tức
là trước khi nạn nhân bị chết.
Tuy
nhiên, thực tiễn xét xử cũng đã coi các hành vi nêu trên là những hành vi có
tính chất man rợ, nhưng không phải là thực hiện tội phạm mà là để che giấu tội
phạm, là trường hợp "thực hiện tội phạm một cách man rợ". Ví dụ: sau
khi đã giết người, người phạm tội cắt
xác nạn nhân ra nhiều phần đem vứt mỗi nơi một ít để phi tang. Đây là vấn đề về
lý luận cũng còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng theo chúng tôi nếu coi cả những
hành vi có tính chất man rợ nhằm che giấu tội giết người cũng là "thực
hiện tội phạm một cách man rợ" thì nên quy định trường hợp phạm tội này là
"phạm tội một cách man rợ", vì phạm tội bao hàm cả hành vi che giấu
tội phạm, còn thực hiện tội phạm mới chỉ mô tả những hành vi khách quan và ý
thức chủ quan của cấu thành tội giết người.
11.
Giết người bằng cách lợi dụng nghề nghiệp (điểm k khoản 1 Điều 93)
Đây
là trường hợp người phạm tội dã sử dụng
nghề nghiệp của mình để làm phương tiện giết người dễ dàng và cũng dễ dàng che
giấu tội phạm như: bác sĩ giết bệnh nhân, nhưng lập bệnh án là nạn nhân chết do
bệnh hiểm nghèo; Bảo vệ bắn chết người, nhưng lại vu cho họ là kẻ cướp. Lợi
dụng nghề nghiệp đẻ giết người là phạm tội với thủ đoạn rất xảo quyệt, nên nhà
làm luật không chỉ dừng lại ở quy định là tình tiết tăng nặng theo Điều 48 Bộ
luật hình sự mà coi thủ đoạn này là tình tiết định khung hình phạt.
Phải
xác định rõ người phạm tội đã lợi dụng
nghề nghiệp của mình để giết người thì mới thuộc trường hợp phạm tội này. Nếu
người có hành vi giết người bằng phương
pháp có tính chất nghề nghiệp, nhưng đó không phải là nghề nghiệp của y mà lại
lợi dụng người có nghề nghiệp đó rồi thông qua người này thực hiện ý đồ của
mình thì không thuộc trường hợp phạm tội
này. Ví dụ: một kẻ đã đánh tráo ống thuốc tiêm của y tá điều trị, thay vào đó
một ống thuốc giả có nhãn hiệu như ống thuốc thật, nhưng có độc tố mạnh để mượn
tay người y tá giết chết bệnh nhân mà y có thù oán.
12.
Giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người (điểm l khoản 1 Điều 93)
Phương
pháp có khả năng làm chết nhiều người là nói đến tính năng, tác dụng của phương
tiện mà người phạm tội sử dụng khi phạm
tội có tính nguy hiểm cao, có thể gây thương vong cho nhiều người như: ném lựu
đạn vào chỗ đông người, bỏ thuốc độc vào bể nước nhằm giết một người mà người
phạm tội mong muốn.
Hậu
quả của hành vi sử dụng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người có thể
chết người mà người phạm tội mong muốn
và có thể chết người khác, có thể chết nhiều người và cũng có thể không ai bị
chết. Nhưng người phạm tội vẫn bị coi là giết người bằng phương pháp có khả
năng làm chết nhiều người và bị xử lý theo khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự. Tuy
nhiên, nếu không có ai bị chết thì người phạm tội được áp dụng Điều 18 Bộ luật hình sự về trường
hợp "giết người chưa đạt"
13.
Thuê giết người (điểm
m khoản 1 Điều 93)
Thuê
giết người là trường hợp trả cho người khác tiền hoặc lợi ích vất chất để họ
giết người mà mình muốn giết.
Cũng
giống như những trường hợp thuê làm một việc, người phạm tội vì không trực tiếp
thực hiện hành vi giết người nên đã dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác để
thuê người khác giết người. Người trực tiếp giết người trong trường hợp này là
người giết thuê.
Thuê
giết người và giết người thuê có mói quan hệ mật thiết với nhau, cái này là
tiền đề của cái kia, thiếu một trong hai cái thì không có trường hợp giết người
này xảy ra (có người thuê, mới người làm thuê).
Thông
thường việc giết người thuê và thuê giết người đồng thời là trường hợp giết
người có tổ chức, nhưng cũng thể chỉ là trường hợp đồng phạm bình thường. Ví
dụ: Phạm Văn T đến nhà Hoàng Thị X là
người yêu chơi. Tại đây. T gặp Hoàng Văn H là anh họ của X và Bùi Công Q đang
nói chuyện với X. T biết H rủ Q đến nhà X chơi là để giới thiệu X cho Q. T giả
vờ xin phép về, trên đường về T gặp Bùi Đức C và Trần Văn S. T nói với C và S:
"Chúng mày làm việc hai thằng đang ở trong nhà X cho tao, xong việc tao sẽ
thưởng" C và S nhận lời, còn T về nhà chờ kết quả. C và S đã chuẩn bị một
đoạn tre dài 1m có đường kính 3 cm ngồi phục sẵn ở gốc cây trước cổng nhà X chờ
H và Q ra để đánh. Khi H và Q từ nhà X đi ra, S bấm đền pin còn C dùng đoạn tre
vụt một cái thật mạnh vào đầu Q làm cho Q gục chết tại chỗ. Đánh xong, C và S
chạy vè báo tin cho T biết là đã đánh một đứa gục rồi. T đưa cho C và S mõi tên
500.000 đồng và bảo chúng trốn đi mọt thời gian bao giờ tình hình êm thì hãy
về.
14.
Giết người thuê (điểm
m khoản 1 Điều 93)
Là
trường hợp người phạm tội lấy việc giết người làm phương tiện để kiếm tiền hoặc
lợi ích vật chất khác. Vì muốn có tiền nên người phạm tội đã nhận lời với người thuê mình để giết một
người khác. Việc trừng trị đối với kẻ giết thuê là nhằm ngăn chặn tình trạng
"đâm thuê chém mướn", nhất là trong nền kinh tế thị trường, ở nơi này
hoặc nơi khác đã xuất hiện những tên, những nhóm người chuyên hoạt động đâm
thuê chém mướn, thì việc trừng trị thật nghiêm đối với bọn người này là rất cần
thiết.
Người
phạm tội phải có ý thức giết thuê thật
sự mới là phạm tội vì động cơ đê hèn. Vì nể hoặc sợ nên người phạm tội nhận lời giết người thì không phải là
"giết thuê".
15.
Giết người có tính chất côn đồ (điểm
n khoản 1 Điều 93)
Là
trường hợp khi giết người, người phạm tội
rõ ràng đã coi thường những quy tắc trong cuộc sống, có những hành vi
ngang ngược, giết người vô cớ (không có nguyên cớ) hoặc cố tình sử dụng những
nguyên cớ nhỏ nhặt để giết người. Ví dụ: Đặng Văn T ngồi xem phim trong rạp,
mặc dù đã có thông báo: "không hút thuốc lá trong rạp", nhưng T vẫn
cứ hút thuốc, những người ngồi bên cạnh góp ý. T không những không nghe mà còn
gây gổ, chửi tục làm mất trật tự; buổi chiếu phim phải tạm dừng. Khi người bảo
vệ đến yêu cầu T tắt thuốc lá và giữ trật tự để buổi chiếu phim tiếp tục, T tỏ
thái độ hung hăng buộc người bảo vệ phải mời T ra khỏi rạp. T liền rút dao găm
trong người ra đâm vào ngực người bảo vệ làm cho người này chết tại chỗ.
Tuy
nhiên, việc xác định trường hợp giết người có tính chất côn đồ không phải bao
giờ cũng dễ dàng như các trường hợp giết người khác được quy định tại khoản 1
Điều 93 Bộ luật hình sự. Thực tiễn xét xử không ít trường hợp giết người không
thuộc các trường hợp khác quy định tại khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự , thì
các Toà án thường xác định giết người có tính chất côn đồ để áp dụng khoản 1
Điều 93 Bộ luật hình sự. Nhiều bản án đã bị kháng nghị theo trình tự Giám đốc
thẩm hặc bị Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao sửa bản án sơ thẩm chỉ vì xác
định không đúng tình tiết này. Đây cũng là một vấn đề hiện nay còn nhiều vướng
mắc và cũng là vấn đề phức tạp có nhiều ý kiến khác nhau; việc tổng kết kinh
nghiệm xét xử về vấn đề này chưa đáp ứng tình hình phạm tôi xảy ra. Do đó ảnh
hưởng không ít đến việc áp dụng pháp luật.
Khi
xác định trường hợp giết người có tính chất côn đồ cần phải có quan điểm xem
xét toàn diện, tránh xem xét một cách phiến diện như: chỉ nhấn mạnh đến nhân
thân người phạm tội , hoặc chỉ nhấn mạnh đến địa điểm xảy ra vụ giết người hay
chỉ nhấn mạnh đến hành vi cu thể gây ra cái chết cho nạn nhân, đâm nhiều nhát
dao vào người nạn nhân là có tính chất côn đồ; nhưng có trường hợp người phạm
tội chỉ đâm một nhát trúng tim nạn nhân
chết ngay cũng là có tính chất côn đồ. Cần xem xét đến mối quan hệ giữa người
phạm tội với nạn nhân, thái độ của người
phạm tội khi gây án, nguyên nhân nào dẫn
đến việc người phạm tội giết người
v.v...
16.
Giết người có tổ chức (điểm
o khoản 1 Điều 93)
Là
trường hợp nhiều người tham gia vào một vụ giết người, có sự cấu kết chặt chẽ
giữa những người cùng thực hiện việc giết người; có sự phân công; có kẻ chủ
mưu, cầm đầu, chỉ huy việc giết người.
Nếu
nhiều người cùng tham gia vào một vụ án giết người, nhưng không có sự cấu kết
chặt chẽ, mà chỉ có sự đồng tình có tính chất hời hợt thì không phải là giết
người có tổ chức. Ví dụ: một số thanh niên ở xã A đi xem phim, gây gổ đánh nhau
với một số thanh niên ở xã B dẫn đến một thanh niên ở xã A bị thanh niên ở xã B
đánh chết. KHi đã xác định giết người có tổ chức thì tất cả những người cùng
tham gia vụ giết người dù ở vai trò nào (chủ mưu hay giúp sức, chỉ huy hay thực
hành...) đều bị coi là giết người có tổ chức. Tuy nhiên, khi quyết định hình
phạt (cá thể hoá hình phạt) phải căn cứ vào vai trò, vị trí của từng người tham
gia vào vụ án. Có thể kẻ bị tử hình, nhưng có kẻ chỉ bị phạt ba hoặc bốn năm
tù.
17.
Giết người thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm (điểm p khoản 1 Điều 93)
Là
trường hợp trước khi giết người, người phạm tội đã bị kết về tội rất nghiêm
trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích hoặc đã tái
phạm và chưa được xoá án tích ( khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự). Ví dụ: A đã
bị kết án 10 năm tù về tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa chưa được xoá án
tích lại phạm tội giết người.
Tái
phạm là trường hợp bị đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do vô
ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý ( khoản 1
Điều 49 Bộ luật hình sự ).
Về
trường hợp phạm tội này, cũng có ý kiến cho rằng không nên coi trường hợp tái
phạm nguy hiểm là tình tiết phạm tội phải bị xử phạt theo khoản 1 Điều 93 Bộ
luật hình sự. Vì trong nhiều trường hợp không thể hiện tính chất nguy hiểm cao
của hành vi giết người. Các quan hệ (đặc điểm) về nhân thân chỉ nên coi là tình
tiết tăng nặng theo Điều 48 Bộ luật hình sự là đủ. Nếu coi trường hợp tái phạm
nguy hiểm là tình tiết định khung hình phạt đối với tội giết người thì chỉ nên
coi trường hợp tái phạm về tội này, tức là đã bị kết án về tội giết người chưa
được xoá án tích mà còn giết người.
18.
Giết người vì động cơ đê hèn (
điểm q khoản 1 Điều 93)
Động
cơ đê hèn của người phạm tội giết người
được xác định qua việc tổng kết kinh nghiệm xét xử nhiều năm ở nước ta. Thực
tiễn xét xử đã coi những trường hợp sau đây là giết người vì động cơ đê hèn:
Giết vợ hoặc chồng để tự do lấy
vợ hoặc chồng khác.
Vì
muốn tự do lấy vợ hoặc chồng khác nên người phạm tội đã giết vợ hoặc giết chồng của mình. Phải có
căn cứ xác định người phạm tội vì muốn
lấy vợ hoặc lấy chồng khác mà buộc phải giết vợ hoặc giết chồng mình thì mới
coi là giết người vì động cơ đê hèn. Nếu vì một lý do khác, người phạm tội đã giết vợ hoặc giết chồng sau đó mới có ý
định lấy vợ hoặc lấy chồng khác thì không phải giết người vì động cơ đe hèn. Ví dụ: Nguyễn Văn T đi làm về, chưa thấy
vợ nấu cơm, liền nổi giận đá vợ mấy cái vào bụng. Do bị đá vỡ lá lách nên vợ T
bị chết sau 4 tiếng đồng hồ. T hoảng sợ lấy thuốc sâu đổ vào miệng vợ rồi nói
với mọi người rằng vợ y tự tử. Với hành động đó, T đã che giấu tạm thời hành vi
phạm tội của mình. Sau khi chôn cất vợ, vì hoàn cảnh gia đình khó khăn lại phải
nuôi con nhỏ nên sau một năm T lấy vợ khác để chăm sóc con cái và giúp y trong
việc nội trợ. Lấy vợ được 6 tháng thì hành vi giết vợ của T bị phát hiện.
b) Giết chồng để lấy vợ hoặc giết
vợ để lấy chồng nạn nhân.
Thông
thường, trong trường hợp này giữa người có hành vi giết người với vợ hoặc chồng nạn nhân có qan hệ thông
gian với nhau. Tuy nhiên, có trường hợp cá biệt không có quan hệ thông gian từ
trước, nhưng trước khi giết nạn nhân người có hành vi giết người đã có ý định lấy vợ hoặc chồng nạn nhân.
Trường hợp có quan hệ thông gian từ trước và cả hai đều là thủ phạm thì một
người phạm tội thuộc trường hợp "giết vợ hoặc chồng để tự do lấy vợ, lấy
chồng khác" còn một người phạm tội thuộc trường hợp "Giết chồng để
lấy vợ hoặc giết vợ để lấy chồng nạn nhân".
Ví dụ: Phạm Văn K là nhân viên bảo vệ
trường dạy nghề của tỉnh Q. K đã nhiều lần quan hệ bất chính với M là vợ của
anh H. Để lấy được nhau, K và M đã bàn bạc giết anh H; theo kế hoạch đã định, M
rủ anh Hvaof rừng lấy nấm, khi anh H đi qua chỗ K phục sẵn, M ra hiệu để k nổ
súng bắn chết anh H. Trường hợp này K giết anh H là để lấy vợ H còn M giết H là
để tự do lấy K.
c) Giết người tình mà biết họ đã
có thai với mình để trốn tránh trách nhiệm.
Đây
là trường hợp giết phụ nữ mà biết là có thai, nhưng nạn nhân lại là người tình
với người phạm tội .
Trách
nhiệm mà người phạm tội trốn tránh là trách
nhiệm làm bố đứa trẻ, do có trách nhiệm này mà có thể làm cho người phạm
tội bị ảnh hưởng đến nhiều mặt trong cuộc sống như: bị kỷ luật, bị xã
hội lên án, bị gia đình, vợ con ruồng bỏ xa lánh v.v...
Nạn
nhân có thai là yếu tố bắt buộc để xác định bị cáo phạm tội trong trường hợp
này. Nhưng nếu nạn nhân không có thai mà nói dối với bị cáo là đã có thai nhằm
thúc ép bị cáo phải cưới mình và bị cáo vì sợ trách nhiệm nên đã giết nạn nhân
thì vẫn bị coi là phạm tội vì động cơ đê hèn.
d) Giết chủ nợ để trốn nợ.
Nhân
dân ta có truyền thống đoàn kết thương yêu đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Trong
quan hệ vay mượn cũng là biểu hiện của tinh thần đó. khi gặp khó khăn, túng
thiếu đã được người khác cưu mang giúp đỡ, lẽ ra phải biết ơn, ngược lại kẻ
được cưu mang giúp đỡ lại giết người cưu mang, giúp đỡ mình nhằm trốn nợ.
Bị
cáo giết nạn nhân chủ yếu nhằm trốn nợ,
nhưng không phải cứ có vay mượn, nợ nần mà đã vội xác định người phạm tội giết người vì động cơ đê hèn, mà phải xác
định việc vay mượn đó có xuất phát từ tình cảm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau
không? Nếu nạn nhân là người cho vay lãi nặng, có tính chất bóc lột thì không
thuộc trường hợp phạm tội vì động cơ đê hèn.
đ) Giết người để cướp của.
Là
trường hợp, người phạm tội muốn chiếm
đoạt tiền của do nạn nhân trực tiếp quản lý (chiếm hữu) nên đã giết họ. Tính
chất đê hèn của trường hợp giết người này cũng là vì tiền.
Người
phạm tội giết người trong trường hợp này
phải chịu trách nhiệm hình sự về hai tội: Tội giết người và tội cướp tài sản...
Riêng tội giết người người phạm tội đã
có hai tình tiết định khung tăng nặng đó là: "vì động cơ đê hèn và để thực
hiện một tội phạm khác", người có hành vi giết người để cướp của thường bị phạt với mức án cao như
tù chung thân hoặc tử hình nếu họ đã đủ 18 tuổi trở lên.
Tuy
nhiên, thực tiễn xét xử ít có Toà án xác định người phạm tội giết người để cướp của là trường hợp
"giết người vì động cơ đê hèn" mà chỉ coi là "giết người để thực
hiện tội phạm khác" , vì như trên đã nêu người có hành vi giết người cướp của đã phạm một lúc hai tội nghiêm trọng
và hình phạt đối với họ cũng rất nghiêm khắc, nên ít ai bàn đến việc có cần
phải áp dụng thêm tình tiết "giết người vì động cơ đê hèn" hay không?
Chính vì vậy mà không ít người cho rằng giết người để cướp của không phải là vì
động cơ đê hèn.
e) Giết người là ân nhân của
mình.
Được
coi là ân nhân của kẻ giết mình trong trường hợp nạn nhân là người đã có công
giúp đỡ người phạm tội trong lúc khó
khăn mà bản thân người phạm tội không
thể tự mình khức phục được. Việc giúp đỡ của nạn nhân đối với người phạm
tội lẽ ra y phải chịu ơn suốt đời, nhưng
đã bội bạc phản trắc, đã giết người giúp mình, chứng tỏ sự hèn hạ cao độ.
Khi
xác định nạn nhân có phải là ân nhân của người có hành vi giết người hay không
xét trong hoàn cảnh cụ thể; mối quan hệ phải rõ ràng, được dư luận xã
hội thừa nhận và không trái pháp luật. Nếu hành vi trái pháp luật của nạn nhân
làm cho kể giết người phải chịu ơn thì không coi là giết người là ân nhân của
mình. Ví dụ: một giám thị đưa bài cho thí sinh chép trong phòng thi, một cán bộ
tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa rồi đem tài sản đó giúp người khác, một cán bộ
quản giáo tha người trái pháp luật; một thẩm phán cố tình đưa ra một bản án
trái pháp luật có lợi cho người phạm tội
v.v...
Ngoài
các trường hợp đã nêu trên, thực tiễn xét xử còn có các trường hợp sau đây cũng
nên coi là giết người vì động cơ đê hèn. Đó là trường hợp người có hành vi giết
người không giết được người mình muốn
giết mà giết người thân của họ mà những người này không hề có mâu thuẫn gì với
người có hành vi giết người , họ yếu đuối không có khả năng tự vệ như ông bà
già, người bị bệnh nặng và các em nhỏ, họ là bố mẹ, vợ con của người mà người
có hành vi giết người định giết nhưng
không giết được. Ví dụ: do làm ăn buôn bán với nhau nên A có thù tức với B. A
tìm B để giết nhưng không được, A liền đến nhà B chém chết mẹ của B mới đang bị
ốm nằm trên giường, mặc dù hành vi giết người này bị coi là có tình tiết tăng
nặng "phạm tội đối với người ở trong tình trạng không tự vệ được " (
điểm h khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự), nhưng chúng tôi cho rằng cần phải coi
trường hợp này là giết người vì động cơ đê hèn và người có hành vi giết
người phải bị trừng trị theo khoản 1
điều 93 Bộ luật hình sự.
Mười
tám ( 18) trường hợp phạm tội giết người trên theo quy định, người phạm tội
phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự, có
khung hình phạt từ 12 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Việc xử
phạt ở mức độ nào là tuỳ thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của từng trường
hợp, đồng thời phải cân nhắc, đánh giá nhân thân người phạm tội, các tình tiết
tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các Điều 46 và 48
Bộ luật hình sự. Thực tiễn xét xử cho thấy có bị cáo giết người chỉ thuộc một
trong mười lăm trường hợp quy định ở khoản 1 Điều 93 nhưng vẫn có thể bị phạt
tử hình. Trong khi đó có bị cáo giết người thuộc hai, ba trường hợp quy định ở
khoản 1 Điều 93 nhưng chỉ bị xử phạt dưới 20 năm tù. Vì vậy, không nên căn cứ
vào số lượng các trường hợp phạm tội mà phải căn cứ vào tính chất nguy hiểm của
từng trường hợp để quyết định hình phạt đối với người phạm tội như Điều 3 và
Điều 45 Bộ luật hình sự quy định.
Nếu
giết người không thuộc một trong 18 trường hợp nêu trên, thì người phạm tội bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự có khung hình
phạt từ bảy năm đến mười lăm năm tù. Đây là trường hợp giết người thông thường,
không có các tình tiết tăng nặng định khung tăng nặng. Lẽ ra trường hợp phạm
tội này phải là cấu thành cơ bản, nhưng do kỹ thuật và truyền thống lập pháp
nên đối với tội giết người nhà làm luật xây dựng cấu thành tăng nặng trước, sau
đó mới đến cấu thành cơ bản. Không nên coi khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự là
cấu thành giảm nhẹ như trong một số tội xâm phạm an ninh quốc gia. Bộ luật hình
sự năm 1985 khi quy định về tội giết người đã chia thành 4 trường hợp, trong đó
có hai trường hợp giết người thuộc cấu thành giảm nhẹ, đó là "giết người
trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh" (khoản 3 Điều 101) và
"giết con mới đẻ" (khoản 4 Điều 101). Nay Bộ luật hình sự năm 1999
không quy định hai trường hợp giết người này cùng chung với tội giết người nữa
mà quy định thành hai tội riêng.
Theo
quy định tại khoản 3 Điều 93 Bộ luật hình sự thì người phạm tội còn có thể bị
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm theo quy định tại
Điều 38 Bộ luật hình sự, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm
theo quy định tại Điều 37, Điều 38 Bộ luật hình sự.4 Đây là hình phạt
bổ sung kèm theo hình phạt chính Toà án có thể áp dụng trong những trường hợp
cần thiết. Đối với tội giết người, nếu Toà án áp dụng hình phạt tử hình đối với
người phạm tội thì không thể áp dụng hình phạt bổ sung vì các hình phạt bổ sung
là hình phạt phải thi hành sau khi chấp hành xong hình phạt tù, một người đã bị
kết án tử hình thì không có việc chấp hành xong hình phạt tù, nếu áp dụng hình
phạt bỏ sung đối với người bị án tử hình sẽ trở thành vô nghĩa. Riêng đối với
hình phạt tù chung thân cũng có ý kiến cho rằng, Toà án có thể áp dụng hình
phạt bổ sung, vì người bị phạt tù chung thân có thể được giảm thời hạn tù và
trên thực tế chưa có người nào bị phạt tù chung thân lại ở tù suốt đời, việc áp
dụng hình phạt bổ sung đối với họ là cần thiết và như vậy mới bảo đảm tính công
bằng với người bị phạt tù có thời hạn. Tuy nhiên, hình phạt tù chung thân là
hình phạt tù không có thời hạn, nếu Toà án áp dụng hình phạt bổ sung đối với
người phạm tội thì khi tuyên án Toà án không thể quyết định cấm cư trú hoặc
quản chế người phạm tội mấy năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù, quyết định
như vậy xét về góc độ pháp lý là không chính xác, không ai biết được người phạm
tội bị phạt tù chung thân đến khi nào thì họ chấp hành xong hình phạt tù. Trừ
trường hợp Bộ luật hình sự quy định "người
bị phạt tù chung thân nếu được giám hình phạt xuống tù có thời hạn thì Toà án
sẽ áp dụng hình phạt bổ sung đối với họ hoặc hình phạt bổ sung nếu áp dụng với
người bị phạt tù chung thân thì hình phạt bổ sung sẽ được thi hành nếu người bị
kết án được giám hình phạt xuống tù có thời hạn theo quy định của Bộ luật hình
sự " Hiện nay chưa có quy định nào về việc áp dụng hình phạt bổ sung
đối với người phạm tội bị áp dụng hình phạt tù chung thân, nên Toà án không thể
áp dụng hình phạt bổ sung đối với họ.
2.
TỘI GIẾT CON MỚI ĐẺ (ĐIỀU
94 )
Là
trường hợp phạm tội của người mẹ do ảnh hưởng nặng nề cảu tư tưởng lạc hậu hoặc
trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết hoặc vứt bỏ đứa con mới đẻ dẫn đến
hậu quả đứa trẻ bị chết. Đây là hợp phạm tội được tách ra từ khoản 4 Điều 101
Bộ luật hình sự năm 1985, vì nếu quy định trường hợp giết con mới đẻ cũng là
tội giết người như tội giết người quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự thì
không thể hiện đầy đủ bản chất của tội phạm. Bởi vì khi tuyên án Toà án vẫn
phải kết án người phạm tội về tội giết người, nhưng hình phạt lại chỉ có 2 năm
tù là cao nhất, chưa kể về hậu quả pháp lý và xã hội đối với người phạm tội rất
nặng nề. Việc nhà làm luật tách hành vi giết con mới đẻ thành một tội phạm
riêng là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn xét xử và chuẩn hoá về mặt lập pháp.
A.
CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
Ngoài
người mẹ của nạn nhân ra, không ai có thể là chủ thể của tội phạm này. Nhưng
ngay cả là mẹ của nạn nhân cũng chỉ coi là
chủ thể của tội này khi người mẹ vì ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc
hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà buộc phải giết hoặc vứt bỏ con
do mình mới đẻ ra. Nếu vì lý do khác mà giết con mình vừa đẻ ra thì không thuộc
trường hợp phạm tội này.
Ảnh
hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu là ảnh hưởng của tư tưởng cũ đã lỗi thời,
không còn phù hợp với quan niệm về cuộc sống, lối sống hiện tại. Hay nói một
cách khác, nó không còn phù hợp với ý thức xã hội đương thời. Ví dụ: dưới chế
độ cũ, một người phụ nữ không có chồng lại có con, bị dư luận lên án, bị phong
tục tập quán cũng như luật lệ trừng phạt rất nặng. Nhưng dưới chế độ mới, pháp
luật vẫn bảo vệ những trường hợp người phụ nữ có con ngoài giá thú và đứa trẻ
đó sinh ra được Nhà nước bảo vệ như tất cả các trẻ em khác. Mặc dù đạo đức xã
hội vẫn còn có người lên án phụ nữ hoang thai và cũng chính vì dư luận xã hội
còn như vậy nên còn có người mẹ không vượt lên tư tưởng lạc hậu đó mà giết hoặc
vứt bỏ con mình đẻ ra để trốn tránh trách nhiệm của người mẹ đối với con.
Thông
thường, những đứa trẻ bị người mẹ giết hoặc vứt bỏ lúc mới đẻ là con ngoài giá
thú. Tuy nhiên cũng có trường hợp do tập quán lạc hậu của một vài địa phương ở
miền núi cho rằng đứa con đầu lòng không phải là con chung của vợ chồng nên sau
khi đứa trẻ ra đời, người mẹ đã bóp chết con mình. Cá biệt, có những nơi do tư
tưởng phân biệt con trai và con gái nên đã có trường hợp người mẹ đã đẻ đến lần
thứ 7 vẫn là con gái nên sau khi đứa trẻ ra đời đã bóp chết.
Trường
hợp đứa trẻ bị người mẹ giết hoặc vứt bỏ dẫn tới bị chết trong hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn là trường hợp sau khi sinh con, người mẹ không có khả năng để
nuôi con mình như: bị mất sữa, bị ốm nặng hoặc trong hoàn cảnh khách quan
khángười bị hại
Pháp
luật không quy định đứa trẻ sinh ra được bao nhiêu ngày thì gọi là mới đẻ. Thực
tiễn xét xử ở nước ta coi đứa trẻ mới đẻ bị người mẹ giết hoặc vứt bỏ là đứa
trẻ sau khi ra đời dài nhất là 7 ngày. Kể từ ngày thứ 8 trở đi, nếu người mẹ
giết con mình thì không được coi là giết con mới đẻ nữa.
Tuy
nhiên, trong những năm gần đây do kinh tế xã hội phát triển, các phương tiện
thông tin đại chúng đã tuyên truyền chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật
của Nhà nước đến tận bản làng xa xôi hẻo lánh. Trình độ dân trí của nhân dân ta
càng được nâng cao, các vụ giết trẻ sơ sinh hoặc vứt bỏ con mới đẻ đã hầu như
không xảy ra.
Đứa
trẻ mới đẻ bị giết hoặc bị vứt bỏ phải bị chết thì người mẹ mới bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội giết con mới đẻ, nếu người mẹ có hành vi tước đoạt
tính mạng đứa trẻ hoặc có hành vi vứt con mới đẻ, nhưng đứa trẻ không bị chết
thì chưa cấu thành tội giết con mới đẻ và như vậy tội giết con mới đẻ không có
trường hợp phạm tội chưa đạt.
B.
ĐƯỜNG LỐI XỬ LÝ ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI GIẾT CON MỚI ĐẺ
Ngươi
mẹ phạm tội giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ con mới đẻ dẫn đến đứa trẻ bị chết, có
thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ 3 tháng đến 2
năm.
Việc
xử lý loại tội phạm này chủ yếu nhằm giáo dục để người mẹ thấy trách nhiệm của
mình đối với đứa con do mình đẻ ra, chống lại tư tưởng lạc hậu, những tàn dư
của chế độ cũ. Chỉ nên truy tố, xét xử những trường hợp cần thiết.
3.
TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH (ĐIỀU 95)
Đây
cũng là trường hợp phạm tội được tách từ tội giết người được quy định tại khoản
3 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985. Vì là trường hợp giết người có tình tiết
giảm nhẹ đặc biệt, nếu quy định cùng một điều luật với tội giết người như trước
đây thì không phải ảnh đúng tính chất của tội phạm này. Việc nhà làm luật tách
trường hợp giết này ra thành một tội phạm riêng không chỉ bảo đảm chính xác về
lý luận và kỹ thuật lập pháp mà còn phù hợp với thực tiễn xét xử.
A.
NHỮNG DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1. Trạng thái tinh thần của người phạm tội lúc thực hiện hành vi giết người là bị kích
động mạnh
Người
bị kích động về tinh thần là người không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của
mình như lúc bình thường, nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức. Lúc đó họ mất
khả năng tự chủ và không thấy hết được tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi của mình; trạng thái tinh thần của họ gần như người điên (người mất
trí). Trạng thái này chỉ xảy ra trong chốc lát, sau đó tinh thần của họ trở lại
bình thường như trước.
Trường
hợp người phạm tội có bị kích động về
tinh thần nhưng chưa tới mức mất khả năng tự chủ thì không gọi là bị kích động
mạnh và không thuộc trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh. Tuy nhiên họ được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại
điểm đ khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.
Việc
xác định một người có bị kích động mạnh về tinh thần hay không là một vấn đề
phức tạp. Bởi vì trạng thái tâm lý của mỗi người khác nhau, cùng một sự việc
nhưng người này xử sự khác người kia; có người bị kích động về tinh thần, thậm
chí "điên lên", nhưng cũng có người vẫn bình thường, thản nhiên như
không có chuyện gì xảy ra. Và cách xử sự của môi người cũng rất khác nhau. Ví
dụ: anh A thấy vợ mình quan hệ bất chính với người khác, liền chạy về nhà lấy
dao đến đâm chết tình nhân của vợ, nhưng anh B gặp trường hợp này lại gọi vợ về
giáo dục, sau đó vợ chồng vẫn sống chung với nhau, còn anh C gặp trường hợp
tương tự lại làm đơn ly hôn. Vì vậy, không thể có sẵn một chuẩn mực để
"đo" tình trạng kích động mạnh hay chưa mạnh về tinh thần của con
người, mà phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, xem xét một cách toàn diện
các tình tiết của vụ án, nhân thân người phạm tội, quá trình diễn biến của sự
việc, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, hoạt động xã hội, điều kiện sống, tính
tình, bệnh tật, hoàn cảnh gia đình, quan hệ giữa người phạm tội với nạn nhân v.v... từ đó xác định mức độ bị
kích động về tinh thần có mạnh hay không, mạnh tới mức nào?
2.
Đối với người bị giết phải là người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng
Hành
vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân, trước hết bao gồm nhưng hành vi vi
phạm pháp luật hình sự xâm phạm đến lợi ích của người phạm tội hoặc đối với những người thân thích của người
phạm tội. Thông thường những hành vi trái pháp luật của nạn nhân xâm phạm đến
tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người phạm tội và những người thân thích của người phạm tội
, nhưng cũng có một số trường hợp xâm phạm đến tài sản của người phạm tội như: đập phá tài sản, đốt cháy, cướp giật,
trộm cắp v.v...
Ngoài
hành vi vi phạm pháp luật hình sự, nạn nhân còn cả những hành vi vi phạm nghiêm
trọng pháp luật khác như: Luật hành chính, Luật lao động; Luật giao thông, Luật
dân sự; Luật hôn nhân và gia đình v.v...
Việc
xác định một hành vi trái pháp luật của nạn nhân đã tới mức nghiêm trọng hay
chưa cũng phải đánh giá một cách toàn diện. Có hành vi chỉ xảy ra một lần đã là
nghiêm trọng, nhưng cũng có hành vi nếu chỉ xảy ra một lần thì chưa nghiêm
trọng, nhưng nó được lặp đi lặp lại nhiều lần thì lại thành nghiêm trọng. Ví
dụ: A và B nhà ở cạnh nhau, chung một bức tường. B đục tường từ phía nhà mình
sang nhà A trong lúc vợ của A đang bị ốm nặng cần sự yên tĩnh. A đã nhiều lần
yêu cầu B chấm dứt hành động đó, nhưng B không nghe, A bực tức giằng búa của B
đánh B một cái làm B ngã gục. Trên đường đưa đi cấp cứu thì B chết. Trong
trường hợp này, hành vi giết người của A cũng được coi là bị kích động mạnh do
hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của B.
Nạn
nhân phải bị chết thì người thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng của nạn nhân
mới cấu thành tội "giết người trong trạng thái tình thần bị kích động
mạnh". Nếu nạn nhân không chết và bị thương có tỷ lệ thương tật từ 31% trở
lên thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh" quy định tại Điều 105 Bộ luật hình sự. Như vậy,
tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh không có giai đoạn
chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, vì không thể xác định được mục đích của
ng[1]ười
phạm tội khi người đó trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mà chỉ có
thể xác định người phạm tội bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.
3. Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng cảu nạn
nhân phải là nguyên nhân làm cho người phạm tội
bị kích động mạnh về tinh thần
Mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với tinh thần bị kích động mạnh là
mối quan hệ tất yếu nội tại có cái này thì ắt có cái kia. Không có hành vi trái
pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân thì không có tinh thần bị kích động mạnh
của người phạm tội và vì thế nếu người
phạm tội không bị kích động bởi hành vi
trái pháp luật của người khác thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Ví dụ: H
đang làm cỏ lúa ở ngoài đồng, thấy có người gọi: "Về ngay! Con anh bị
người ta đánh chết rồi!". H vác cuốc chạy về. Thấy con mình nằm ở sân trên
người dính máu. Mọi người cho biết T, con bà N đánh con H, đã bỏ chạy. H bực
tức chạy sng nhà bà N tìm T nhưng không có T ở nhà, H đã dùng cuốc bổ vào đầu
bà N một cái làm bà N chết tại chỗ. Trường hợp này chính T mới là người có hành
vi trái pháp luật nghiêm trọng khiến H bị kích động về tinh thần chứ không phải
bà N. Do đó hành vi giết người của N không phải là giết người trong trạng thái
tình thần bị kích động mạnh.
Trường
hợp người phạm tội tự mình gây nên tình trạng tinh thần kích động mạnh rồi giết
người cũng không thuộc trường hợp giết người trong trạng thái tình thần bị kích
động mạnh. Ví dụ: A và B cãi nhau rồi dẫn đế hai người đánh nhau, A bị B đánh,
về nhà bực tức uống rượu say rồi mang dao găm đến nhà B gọi B ra cổng dùng dao
đâm chết B.
Nếu
nạn nhân là người điên hay trẻ em dưới 14 tuổi có những hành vi làm cho người
phạm tội bị kích động mạnh, thì cũng
không thuộc trường hợp giết người trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh.
Bởi lẽ, hành vi của người điên và của trẻ em dưới 14 tuổi không bị coi là hành
vi trái pháp luật, vì họ không có lỗi do họ không nhận thức được tính nguy hiểm
cho xã hội của hành vi do họ thực hiện.
4. Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn
nhân đối với những người thân thích của người phạm tội
Một
người bị kích động mạnh về tinh thần ngoài trường hợp người khác có hành vi
trái pháp luật nghiêm trọng đối với chính bản thân họ, thì còn có cả trường hợp
người khác có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với những người thân
thích của mình.
Những
người thân thích là những người có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân như:
vợ đối với chồng; cha mẹ với con cái; anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác
mẹ đối với nhau; ông bà nội goại đối với các cháu v.v...
Tuy
nhiên, thực tiễn xét xử Toà án cũng đã công nhận một số trường hợp tuy không phải
là quan hệ huyết thống hay hôn nhân mà chỉ là quan hệ thân thuộc như anh em
ruột. Ví dụ: Đ và M cùng ở một đơn vị bộ dội; cả hai cùng chiến đấu ở chiến
trường miền Nam. Sau ngày giải phóng, cả hai cùng được phục viên, nhưng gia
đình M đã bị bom Mĩ sát hại hết nên Đ đã mời M đến ở chung với gia đình mình.
Gia đình Đ coi M như con trong nhà ngược lại M cũng coi gia đình Đ như gia đình
mình. Một hôm, M đang chặt cây thì có người gọi: "về nhà ngay! mẹ của Đ bị
đánh què chân rồi". M vội cầm dao chạy về thì được biết T là người đánh mẹ
Đ, M liền cầm dao sang nhà T chém liên tiếp vào đầu làm T chết tại chỗ.
B.
CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1.
Trường hợp giết một người
trong
trạng thái tình thần bị kích động mạnh ( khoản 1 Điều 95)
Trong
trường hợp chỉ có một người bị giết thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo khoản 1 Điều 95 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ sáu tháng
đến ba năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. So với quy định tại khoản 3 Điều 101
Bộ luật hình sự năm 1985 thì quy định tại khoản 1 Điều 95 nhẹ hơn, nên được áp
dụng đối với hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ
00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử. Tuy
nhiên, khung hình phạt của khoản 1 Điều 95 Bộ luật hình sự năm 1999 lại nhẹ hơn
khung hình phạt quy định tại điểm b khoản 2
Điều 105 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh dẫn đến chết người là không hợp lý, vì cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh mà tỷ lệ thương tật của nạn nhân từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết một
người không thể nghiêm trọng bằng trường hợp giết một người trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh được. Hy vọng rằng các nhà làm luật sẽ quan tâm hai
trường hợp phạm tội này, khi có điều kiện sửa đỏi, bổ sung Bộ luật hình sự sẽ
điều chỉnh lại cho hợp lý.
2.
Trường hợp giết nhiều người
trong
trạng thái tình thần bị kích động mạnh ( khoản 2 Điều 95)
Giết
nhiều người trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh là trường hợp có từ
hai người trở lên bị giết đều có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với
người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội. Đây là quy
định mới so với khoản 3 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985, nên chỉ áp dụng đối
với hành vi phạm tội được thực hiện từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000.
Nếu chỉ có một người có hành vi trái pháp luật
nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người
phạm tội, còn những người khác không có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối
với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội, thì người
phạm tội bị truy cứu về hai tội: Tội giết người trong trạng thái tình thần bị
kích động mạnh và tội "giết người" theo quy định tại Điều 93 Bộ luật
hình sự. Ví dụ: Hoàng văn T đang ngồi uống bia, thì con trai là Hoàng Văn Q ra
nói: " Bố về nhà ngay, mẹ bị người ta đến đánh chảy máu đầu rồi". T
cùng con chạy về nhà thì thấy vợ bị đánh chảy máu đầu đang được mọi người băng
bó, T hỏi thì mọi người cho biết Lê Văn H cùng mấy người khác đến đòi nợ và
đánh vợ của T. Nghe vậy, T liền cầm dao đi tìm H. Khi gặp H, T hỏi: "vì
sao mi đánh vợ tao ". H thản nhiên trả lời: "tao đánh đấy, mày làm gì
được tao". Nghe H nói vậy, T liền rút dao giấu trong người ra đâm H, thì
anh Vũ Văn K ngăn lại và nói: "có gì bình tĩnh giải quyết, sao lại đâm
chém nhau thế này". Sẵn dao trong tay, lại cho rằng anh K là người bênh
vực H nên đâm luôn anh K một nhát vào bụng và lao đến đâm nhiều cái vào người H
rồi bỏ chạy. Mọi người đưa anh K và H đi cấp cứu, nhưng do vết thương quá nặng
nên cả hai đã bị chết trên đường đến bệnh viện. Hành vi giết hai người của
Hoàng Văn T chỉ có một người ( Lê Văn H) có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng
đối với người thân thích của T, còn một người ( anh Vũ văn K ) không có hành vi
vi phạm pháp luật nghiêm trọng nào đối với T hoặc người thân thích của T, nên
Hoang Văn H bị truy cứu trách nhiệm hai tội: Tội giết người trong trạng thái
tình thần bị kích động mạnh theo khoản 1 Điều 95 và tội giết người theo Điều 93
Bộ luật hình sự.
Nếu
có nhiều người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội
hoặc đối với người thân thích của người phạm tội, nhưng chỉ có một người bị
giết chết, còn những người khác chỉ bị thương và có tỷ lệ thương tật từ 31% trở
lên thì người phạm tội bị truy cứu về hai tội : tội giết người trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh theo khoản 1 Điều 95 và tội cố ý gây thương tích
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Điều 105 Bộ luật hình sự
Khi
xử lý người phạm tội giết người trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh,
các cơ quan tiến hành tố tụng cần xác định rõ trạng thái tinh thần của người
phạm tội trong khi phạm tội và đặc biệt
phải làm rõ hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân. Bởi vì hình phạt
đối với người phạm tội thuộc trường hợp
này chỉ bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, nếu giết nhiều người mức hình phạt
cao nhất cũng chỉ tới 7 năm tù. Nếu không làm rõ hành vi tái pháp luật của nạn
nhân sẽ dẫn đến tình trạng thân nhân của người bị hại và những người không am
hiểu pháp luật cho rằng giết người sao lại xử nhẹ như vậy.
C.
PHÂN BIỆT VỚI MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI KHÁC
1.
Với trường hợp phạm tội bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của
người khác gây ra quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự
Cả
hai trường hợp, người phạm tội đều bị
kích động về tinh thần và đều do hành vi trái pháp luật của người khác gây ra.
Nhưng sự khác nhau là mức độ bị kích động và mức độ trái pháp luật của nạn
nhân. Nếu ở trường hợp quy định tại Điều 95 Bộ luật hình sự, người phạm tội
phải bị kích động mạnh thì ở trường hợp quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 tuy
tinh thần có bị kích động nhưng chưa mạnh, chưa tới mức không nhận thức được
hành vi của mình. Nếu ở trường hợp quy định tại Điều 95, hành vi trái pháp luật
của nạn nhân phải là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng, thì ở điểm đ khoản 1
Điều 46 hành vi trái pháp luật của nạn nhân chưa phải là nghiêm trọng.
Hành
vi trái pháp luật ở trường hợp quy định tai Điều 95 nhất thiết phải là hành vi
của nạn nhân, còn đối với trường hợp quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 có thể
không phải là của nạn nhân mà có thể là của người khác.
Nếu
ở trường hợp quy định tại Điều 95, hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn
nhân phải là đối với người phạm tội hoặc
người thân thích của người phạm tội , nhưng ở điểm đ khoản 1 Điều 46 thì không
nhất thiết phải như vậy.
2.
Với trường hợp giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng quy định tại
Điều 96 Bộ luật hình sự
Cả
hai trường hợp, nạn nhân đều có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng, nhưng ở
trường hợp giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, hành vi trái
pháp luật đang xảy ra và chưa kết thúc, còn ở trường hợp giết người trong trạng
thái tình thần bị kích động mạnh, hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn
nhân đã kết thúc.
Về
thái độ tâm lý, người phạm tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng có thể bị kích động về tinh thần, nhưng cũng có thể không bị kích động về
tinh thần, vì phòng vệ là quyền được pháp luật công nhận và trong nhiều trường
hợp phòng vệ còn là nghĩa vụ của công dân để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình
hoặc của người khác, nên họ có thể chủ
động ngăn chặn sự xâm hại.
Hành
vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân trong tội giết người trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh có thể bằng lời nói, có thể bằng hành động,
nhưng hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân trong tội giết người do
vướt quá giới hạn phòng vệ chính đáng chỉ có thể là hành động xâm phạm đến lợi
ích của Nhà nước, của tổ chức, của người phạm tội hoặc của người khác.
Hành
vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân trong tội giết người trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh chỉ đối với người phạm tội hoặc người thân
thích của người phạm tội còn hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân
trong tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng có thể đối với
Nhà nước, tổ chức hoặc người khác.
3.
Với trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nhưng dẫn đến chết người.
Phải
nói ngay rằng việc phân biệt giữa hai trường hợp phạm tội này là rất khó khăn
bởi như trên là phân tích đối với người bị kích động mạnh về tinh thân khi phạm
tội không thể xác định được mục đích của họ, họ hành động như người mất trí,
nên hậu quả đến đâu người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự tới đó, khó có
thể xác định một người bị kích động mạnh về tinh thần lại còn đủ bình tĩnh để
giới hạn hành vi phạm tội chỉ ở mức gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khoẻ của người bị hại. Tuy nhiên thực tiễn xét xử cũng có những trường hợp sau
khi bị đánh người bị hại chưa chết ngay mà phải sau một thời gian nhất định mới
bị chết. Nếu như không ở trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì người
phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích dẫn
đến chết người quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 104 Bộ luật hình sự, nhưng
vì người phạm tội bị kích động mạnh về tinh thần nên họ bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh nhưng dẫn đến chết người. Nếu nạn nhân bị chết ngay hoặc sau vài giờ
mới chết thì nên truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội về tội giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
4.
TỘI GIẾT NGƯỜI DO VƯỢT QUÁ GIỚI HẠN PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG (ĐIỀU 96)
Giết
người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là cố ý tước đoạt tính mạng
người đang có hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, lợi ích chính
đáng của mình hoặc của người khác một cách không cần thiết
A.
CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
Việc
xác định các dấu hiệu của tội phạm này nhất thiết phải căn cứ vào chế định
phòng vệ chính đáng được quy định tại Điều 13 Bộ luật hình sự. Bởi lẽ không có
phòng vệ chính đáng thì không có vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Như
vậy dấu hiệu quan trọng nhất của tội phạm này là "sự vượt quá cái giới hạn
được coi là chính đáng". Vì vậy, để xác định vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng, thì nhất thiết phải hiểu được thế nào là phòng vệ chính đáng ?
Phòng
vệ chính đáng được quy định tại Điều 15 Bộ luật hình sự với nội dung: “ Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của
mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có
hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.” Luật hình sự của một số nước gọi là
phòng vệ cần thiết (Điều 38 Bộ luật hình sự của liên bang Nga). Bộ luật hình sự
năm 1999 đã không dùng thuật ngữ tương
xứng mà thay vào đó là thuật ngữ cần
thiết tuy không làm thay đổi bản chất của chế định phòng vệ chính đáng
nhưng cũng làm cho việc vận dụng chế định này trong thực tiễn đấu tranh phòng
chống tội phạm có hiệu quả hơn.
Cho
đến nay, đã có nhiều nhà khoa học, các cán bộ làm công tác thực tiễn quan tâm
đến chế định phòng vệ chính đáng trong luật hình sự, nhiều bài viết đăng trên
các tạp chí khoa học hoặc tạp chí chuyên ngành bàn về phòng vệ chính đáng. Tuy
nhiên, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn
diện chế định phòng vệ chính đáng; mặc dù Bộ luật hình sự năm 1985 đã được ban
hành hơn 10 năm, nhưng chưa có giải thích chính thức nào của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền về chế định phòng vệ chính đáng. Do đó, vấn đề phòng vệ chính
đáng trong luật hình sự cho đến nay vẫn là vấn đề nhiều người quan tâm và thực
tiễn đấu tranh chống tội phạm nhiều trường hợp có nhiều ý kiến khác nhau nên
dẫn đến các quyết định khác nhau.
Tuy
nhiên, qua việc tổng kết thực tiễn xét xử, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao có Nghị quyết số 02/ HĐTP ngày 5-1-1986 hướng dẫn các Toà án các cấp áp
dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, trong đó tại mục II của Thông tư có
đề cập đến chế định phòng vệ chính đáng. Trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985,
Toà án nhân dân tối cao cũng có chỉ thị số 07 ngày 22-12-1983 về việc xét xử
các hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khoẻ của người khác do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành công vụ. Tinh thần của chỉ thị
số 07 theo chúng tôi vẫn còn phù hợp với quy định của Điều 15 Bộ luật hình sự
và Nghị quyết số 02 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao với nội dung
là: Hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức
khoẻ của người khác được coi là phòng vệ chính đáng khi có đầy đủ các dấu hiệu
sau dây:
- Hành vi xâm hại những lợi ích
cần phải bảo vệ phải là hành vi tội phạm hoặc rõ ràng là có tính chất nguy hiểm
đáng kể cho xã hội;
- Hành vi nguy hiểm cho xã hội
đang gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho những
lợi ích cần phải bảo vệ;
- Phòng vệ chính đáng không chỉ
gạt bỏ sự đe doạ, đẩy lùi sự tấn công, mà còn có thể tích cực chống lại sự xâm
hại, gây thiệt hại cho chính người xâm hại;
- Hành vi phòng vệ phải cần thiết
với hành vi xâm hại, tức là không có sự chênh lệch quá đáng giữa hành vi phòng
vệ với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại.
Cần thiết không có nghĩa là thiệt
hại do người phòng vệ gây ra cho người xâm hại phải ngang bằng hoặc nhỏ hơn
thiệt hại do người xâm hại đe doạ gây ra hoặc đã gây ra cho người phòng vệ.
Để xem xét hành vi chống trả có
cần thiết hay không, có rõ ràng là quá đáng hay không, thì phải xem xét toàn
diện những tình tiết có liên quan đến hành vi xâm hại và hành vi phòng vệ như:
khách thể cần bảo vệ; mức độ thiệt hại do hành vi xâm hại có thể gây ra hoặc đã
gây ra và do hành vi phòng vệ gây ra; vũ khí, phương tiện, phương pháp mà hai
bên đã sử dụng; nhân thân của người xâm hại; cường độ của sự tấn công và của sự
phòng vệ; hoàn cảnh và nơi xẩy ra sự việc v.v... Đồng thời cũng phải chú ý yếu
tố tâm lý của người phải phòng vệ có khi không thể có điều kiện để bình tĩnh
lựa chọn được chính xác phương pháp, phương tiện chống trả thích hợp, nhất là
trong trường hợp họ bị tấn công bất ngờ.
Sau khi đã xem xét một cách đầy
đủ, khách quan tất cả các mặt nói trên mà nhận thấy rõ ràng là trong hoàn cảnh
sự việc xảy ra, người phòng vệ đã sử dụng những phương tiện, phương pháp rõ
ràng quá đáng và đã gây thiệt hại rõ ràng quá mức đối với hành vi xâm hại thì
coi hành vi chống trả là không cần thiết và là vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng. Ngược lại, nếu hành vi chống trả là cần thiết thì đó là phòng vệ chính
đáng.5
Tinh
thần của chỉ thị số 07 và nghị quyết số 02 của Toà án nhân dân tối cao tuy chỉ
là văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật, nhưng qua thực tiến xét xử, các văn bản
trên được sử dụng như là một văn bản giải thích chính thức của cơ quan Nhà nứơc
có thẩm quyền về chế định phòng vệ chính đáng. Tuy nhiên, do còn hạn chế về
nhiều mặt nên cả về lý luận cũng như thực tiễn xét xử các văn bản trên chưa quy
định một cách đầy đủ những dấu hiệu của chế định phòng vệ chính đáng, nên thực
tiễn xét xử có không ít trường hợp còn có nhận thức rất khác nhau về phòng vệ
chính đáng. Ví dụ: Khi nói đến hành vi chống trả một cách cần thiết người đang
có hành vi xâm phạm, nhưng chưa nêu được căn cứ để xác định thể nào là cần
thiết ? Các lợi ích bị xâm phạm theo Điều 15 Bộ luật hình sự bao gồm lợi ích
của Nhà nước, của tổ chức, của người phòng vệ và của người khác, nhưng bị xâm
phạm trong trường hợp như thế nào thì hành vi chống trả được coi là phòng vệ,
trường hợp nào thì không được coi là phòng vệ. Các công trình nghiên cứu của
một số tác giả về chế định phòng vệ chính đáng cũng mới đề cập đến những khái
niệm, những quy định của các văn bản hướng dẫn hoặc nêu một số vụ án mà Toà án
các cấp đã xét xử người phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và từ
đó rút ra kết luận, nhưng kết luận này không áp dụng cho tất cả các trường hợp,
tính khái quát chưa cao.
Căn
cứ vào quy định tại Điều 15 Bộ luật hình sự, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp
luật và đặc biệt qua thực tiễn xét xử, chúng ta có thể nêu những điều kiện cần
và đủ để một hành vi được coi là phòng vệ chính đáng phải hội tụ đủ các yếu tố
sau:
Về
phía nạn nhân
Nạn
nhân ( người bị chết hoặc bị thương tích) phải là người đang có hành vi xâm
phạm đến các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của các nhân người phòng vệ
hoặc của người khác.
Đang
có hành vi xâm phạm là hành vi đã bắt đầu và chưa kết thúc. Ví dụ: A đang cầm
dao đuổi chém B hoặc C đang dí súng vào đầu Điều để buộc Điều phải đưa tài sản
cho mình. Nếu hành vi chưa bắt đầu, thì mọi hành vi chống trả không được coi là
hành vi phòng vệ. Ví dụ: Trần Tuấn Anh thấy Nguyễn Văn Hùng đi chơi với người
yêu của mình nên nói với Hùng: “ Tao sẽ giết mày!” Mới nghe Tuấn Anh nói vậy,
Hùng đã rút dao trong người ra đâm Tuấn Anh chết. Trường hợp hành vi xâm phạm
đã kết thúc thì mọi hành vi chống trả cũng không được coi là hành vi phòng vệ.
Ví dụ: A đánh B bị thương vào đầu, được mọi người can ngăn, A đã bỏ đi, nhưng
do bực tức B đã lấy dao đuổi theo A đâm A chết. Tuy nhiên, trong trường hợp
hành vi xâm phạm này đã kết thúc, nhưng lại có tiếp hành vi khác của chính người
đó xâm phạm đến lợi ích chính đáng cần bảo vệ thì cũng không coi là hành vi xâm
phạm đã kết thúc và người có hành vi chống trả vẫn được coi là phòng vệ. Ví dụ:
A đánh B nhưng B đỡ được, A biết không thể đánh nổi B nên chạy vào nhà B đánh
mẹ của B đang bị bệnh nằm trên giường, nên B đã dùng một khúc gỗ vụt mạnh vào
đầu A làm cho A ngất xỉu sau đó bị chết. Mặc dù hành vi tấn công của A đã kết
thúc đối với B nhưng A lại có tiếp hành vi xâm phạm đến mẹ của B và để bảo vệ
mẹ của mình nên B đã chống trả gây thiệt hại cho A nên hành vi của B cũng được
coi là phòng vệ. Trường hợp phòng vệ này thường bị nhầm với trường hợp tội phạm
do tinh thần bị kích động mạnh quy định tại Điều 95 Bộ luật hình sự , vì người
bị tấn công không phải là người chống trả ( người có hành vi phòng vệ) mà là
người khác ( người thứ ba). Tuy nhiên người thứ ba trong trường hợp phòng vệ có
thể là người thân của mình, nhưng cũng có thể chỉ là một người không quen biết,
còn trường hợp phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, người bị
xâm phạm chỉ có thể là người thân của người phạm tội. Trường hợp phòng vệ này
càng dễ nhầm với trường hợp phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần
do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác gây ra quy định tại
điểm đ khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, vì người thứ ba trong trường hợp quy
định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự là tình tiết giảm nhẹ có thể là
người thân, nhưng cũng có thể là người không quen biết. Hành vi phòng vệ và
hành vi được coi là bị kích động về tinh thần chỉ khác nhau ở tính chất và mức
độ nghiêm trọng của hành vi xâm phạm. Vì vậy, về phía nạn nhân trong trường hợp
phòng vệ phải là người có hành vi xâm phạm có tính chất nguy hiểm đáng kể.
Mức
độ đáng kể ở đây là tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị
xâm phạm (quan hệ xã hội cần bảo vệ). Nếu quan hệ xã hội cần bảo vệ càng quan
trọng bao nhiêu thì tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm của nạn
nhân càng nghiêm trọng bấy nhiêu. Ví dụ: Một người trèo tường để đột nhập vào
nơi cất giữ tài liệu tối mật về an ninh quốc phòng được canh phòng cẩn thận,
thì tính chất nghiêm trọng hơn nhiều so với người trèo tường vào một gia đình
nông dân để trộm cấp tài sản.
Mức
độ đáng kể của hành vi xâm phạm còn phụ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm
của hành vi tấn công của nạn nhân ( người có hành vi xâm phạm). Ví dụ: Hành vi
dùng súng để uy hiếp hành khách trên Tầu hoả của một tên cướp nguy hiểm hơn
nhiều hành vi lén lút thò tay vào túi người khác để lấy trộm tiền.
Nếu
tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm không đáng kể thì hành vi
chống trả không được coi là phòng vệ. Ví dụ: A chỉ tát B một cái, B đã rút dao
đâm chết A hoặc A chỉ thò tay vào túi của B để trộm cắp, B đã túm cổ áo A đấm
tíu bụi cho đến chết, thì hành vi của B trong cả hai trường hợp này đều không
được coi là hành vi phòng vệ.
Hành
vi xâm phạm phải là hành vi trái pháp luật, nếu hành vi xâm phạm lại là hành vi
mà pháp luật cho phép, thì người bị xâm phạm không có quyền chống trả để phòng
vệ. Ví dụ: Một cảnh sát đuổi bắt một tên tội phạm nguy hiểm, người cảnh sát này
đã bắn chỉ thiên, hô đứng lại, nhưng tên tội phạm vẫn cố tình chạy trốn, buộc
người cảnh sát phải nổ súng bắn què tên tội phạm để bắt hắn. Nhưng khi người
cảnh sát đến gần, hắn bất ngờ rút dao trong người ra đâm người cảnh cát trọng
thương. Hành vi của tên tội phạm này không được coi là hành vi phòng vệ, vì
hành vi của người cảnh sát được pháp luật cho phép. Hành vi trái pháp luật,
trước hết là hành vi tội phạm và những hành vi khác trái với quy định của pháp
luật thuộc các ngành luạt khác như: Luật hôn nhân và gia đình, luật dân sự,
luật hành chính, luật kinh tế và các văn bản pháp luật khác. Tuy nhiên, khi xét
hành vi xâm phạm trong trường hợp phòng vệ chính đáng phải xét trong mối tương
quan với hành vi chống trả, không phải bất cứ hành vi tội phạm nào xảy ra,
người có hành vi chống trả gây chết người hoặc gây thương tích cho người có
hành vi xâm phạm đều là phòng vệ chính đáng. Ví dụ: A thò tay vào túi B để trộm
cắp, nhưng B phát hiện được liền rút dao ra đâm A một nhát vào bụng làm A chết.
Hành vi của B không được coi là phòng vệ chính đáng mặc dù hành vi xâm phạm của
A là hành vi pham tội ( tội trộm cắp tài sản của công dân). Ngược lại, có những
hành vi xâm phạm chưa phải là hành vi tội phạm, nhưng vì nó xâm phạm nghiêm
trọng đến lợi ích của Nhà nước, của tổ chức và của công dân nên hành vi chống
trả vẫn được coi là phòng vệ chính đáng, Ví dụ: Một người trèo tường vào khu
vực cấm định hái một ít hoa. Người chiến sĩ bảo vệ phát hiện đã hô đứng lại,
bắn chỉ thiên để bắt người này, nhưng vì hoảng sợ nên vẫn bỏ chạy buộc chiến sỹ
bảo vệ phải bắn vào chân người này làm họ bị gẫy chân. Sau khi bị bắt, mới biết
người này trèo tường vào khu vực cấm chỉ là để hái hoa và không biết đây là khu
vực quan trọng cần được bảo vệ nghiêm ngặt. Như vậy, khi xem xét hành vi của
người đang xâm phạm đến các lợi ích cần bảo vệ, không nhất thiết chỉ căn cứ vào
tính chất nguy hiểm của hành vi xâm phạm mà phải chú ý đến lợi ích cần bảo vệ,
đồng thời phải xét nó trong mối quan hệ với hành vi chống trả để xác định sự
chống trả trong trường hợp cụ thể đó có được coi là phòng vệ chính đáng hay
không ?
Pháp
luật các nước nói chung cà nước ta nói riêng không coi hành vi tấn công của
người mắc bệnh tâm thần là hành vi trái pháp luật, bởi vì người mắc bệnh tâm
thần ( người điên ) họ không nhận thức được hành vi của họ là nguy hiểm cho xã
hội nên họ không có lỗi. Tuy nhiên, nếu một người bị người mắc bệnh tâm thần
tấn công, họ vẫn có quyền chống trả để bảo vệ mình, nhưng nếu còn có thể bỏ
chạy mà không chạy lại chống trả gây thiệt hại cho người bị tâm thần thì không
được coi là phòng vệ. Nhưng nếu bị người say rượu tấn công mình hoặc tấn công
người khác thì hành vi gây thiệt hại cho người say rượu lại được coi là hành vi
phòng vệ, vì người say rượu nếu xâm phạm đến các lợi ích cần bảo vệ, theo pháp
luật nước ta vần bị coi là hành vi trái pháp luật
Về
phía người phòng vệ
Nếu
thiệt hại do người có hành vi xâm phạm gây ra có thể là thiệt hại về tính mạng,
sức khoẻ, có thể là thiệt hại về tài sản, nhân phẩm, danh dự hoặc các lợi ích
xã hội khác, thì thiệt hại do người có hành vi phòng vệ gây ra chỉ có thể là
thiệt hại về tính mạng hoặc sức khoẻ cho người có hành vi xâm phạm . Ví dụ: A
đi làm về thấy hai tên thanh niên đang hãm hiếp con gái mình, tiện có chiếc
cuốc trên tay, A đã dùng cuốc bổ vào đầu một tên làm cho tên này bị trọng
thương. Hành vi của A được coi là hành vi phòng vệ trong trường hợp bảo vệ lợi
ích chính đáng của người khác ( con gái) đang bị xâm phạm.
Nếu
người phòng vệ không gây thiệt hại cho chính người có hành vi xâm phạm mà gây
thiệt hại cho người khác (thường là người thân của người có hành vi xâm phạm),
thì không được coi là hành vi phòng vệ. Ví dụ: Trần Văn Q bị Phạm Thanh B đánh,
nhưng Q không đánh B là lại đánh H (con của B) bị thương tích nặng. Hành vi của
Q không được coi là hành vi phòng vệ.
Trường
hợp người phòng vệ không gây thiệt hại về tính mạng hoặc sức khoẻ cho người có
hành vi xâm phạm mà lại gây thiệt hại khác, thì cũng không được coi là hành vi
phòng vệ. Ví dụ: Hoàng Công Đ bị Trần Văn T dùng dao đuổi đánh, để ngăn chặn
việc T đưổi đánh mình nên Đ đã dùng bật lửa đốt nhà của T. Hành vi của Đ không
được coi là hành vi phòng vệ, vì Đ không gây thiệt hại đến tính mạng hay sức
khỏe đối với T mà gây thiệt hại về tài sản của T.
Cũng
không coi là phòng vệ chính đáng trong trường hợp người có hành vi xâm phạm gây
thiệt hại đến tài sản của người khác, rồi người khác cũng gây thiệt hại lại
cũng về tài sản cho người có hành vi xâm phạm. Ví dụ: Nguyễn Văn K ra thăm đồng
thấy Bùi Quốc T đang nhổ lúa trên thửa ruộng nhà mình vì hai bên đang có tranh
chấp về thửa rưộng này. K chạy về lấy dao ra chặt phá cây trong khu vườn của
gia đình T. Hành vi của cả K và T là hành vi cố ý huỷ hoại tài sản của công
dân, K không thể lấy lý do: “mày nhổ lúa nhà tao thì tao chặt cây nhà mày”
Hành
vi chống trả phải là cần thiết.
Cần
thiết không có nghĩa là bên xâm phạm gây thiệt hại như thế nào thì bên phòng vệ
cũng chỉ được gây thiệt hại như thế, mà thiệt hại do người có hành vi phòng vệ
có thể lớn hơn nhiều so với thiệt hại mà người có hành vi xâm hại gây nên.
Sự
chống trả cần thiết trong phòng vệ chính đáng, trước hết phải căn cứ vào tính
chất của các lợi ích bị xâm phạm; tính chất của hành vi xâm phạm và các mối
tương quan khác giữa hành vi xâm phạm với hành vi phòng vệ.
Lợi
ích bị xâm phạm càng quan trọng bao nhiêu, thì hành vi chống trả càng phải mạnh
mẽ bấy nhiêu; Ví dụ: Một cảnh vệ nổ súng bắn chết một người đã đột nhập vào khu
vực được bảo vệ nghiêm ngặt theo một chế độ đặc biệt, thì hành vi của người bảo
vệ được coi là cần thiết và là phòng vệ chính đáng. Nhưng cũng hành vi bắn chết
người này lại trong trường hợp một học sinh vào trường hái trộm một ít nhãn và
bị bảo vệ bắn chết thì lại không được coi là cần thiết và người bảo vệ đó không
được coi là phòng vệ chính đáng. Vì vậy khi xem xét hành vi chống trả có cần
thiết hay không phải đặt nó trong hoàn cảnh cụ thể trong mối quan hệ giữa lợi
ích được bảo vệ và hành vi chống trả.
Tính
chất, mức độ của hành vi xâm phạm càng nguy hiểm và nghiêm trọng bao nhiêu thì
hành vi chống trả càng phải quyết liệt bấy nhiêu. Ví dụ: một tên cướp dùng súng
uy hiếp mọi người trên xe khách để đồng bọn của y lục soát lấy tài sản, đã bị
một cảnh sát hình sự bắn chết. Hành vi của chiến sĩ cảnh sát này được coi là
hành vi phòng vệ chính đáng. Nhưng nếu người cảnh sát mới thấy tên cướp giơ dao
đe doạ mọi người phải đưa tiền cho y mà đã vội rút súng ra bắn chết ngay tên
cướp thì chưa được coi là phòng vệ chính đáng.
Khi
đánh giá một hành vi chống trả có cần thiết hay không còn phải căn cứ vào nhiều
yếu tó khác như: mối tương quan lực lượng giữa bên xâm phạm và bên phòng vệ,
thời gian, không gian xảy ra sự việc.Ví dụ: Trong đêm tối, A bị một số người
gọi ra nơi vắng vẻ rồi dùng chân tay đấm đá túi bụi, A thấy thế phải bỏ chạy,
nhưng vẫn bị số người này đuổi theo, sẵn có con dao nhọn trong túi, A lấy ra
giơ lên doạ: “ thằng nào vào đây tao đâm chết!”. Những người đuổi theo vẫn lao
vào để đánh A, liền bị A dùng dao đâm trúng tim một người chết ngay tại chỗ.
Nếu xét về phương tiện, thì A dùng dao còn những người tấn công chỉ dùng chân
tay không, nhưng nếu xét về mói tương quan lực lượng thì một bên chỉ có một
mình A còn bên kia có nhiều người và đặc biệt xét trong hoàn cảnh cụ thể, trong
đêm tối hành vi xâm phạm của những người này phải coi là nguy hiểm đến tính
mạng sức khoẻ của A, nên hành vi của A được coi là phòng vệ chính đáng.
Phòng
vệ chính đáng không chỉ nhằm gạt bỏ sự đe doạ, đẩy lùi sự tấn công trái pháp
luật mà nó còn thể hiện thái độ tích cực chống trả sự xâm phạm đến các lợi ích
của Nhà nước, của tổ chức, của mình hoặc của người khác. Phòng vệ chính đáng
còn là quyền của con người chứ không chỉ là nghĩa vụ, nên không yêu cầu phương
pháp phương tiện của người phòng vệ phải như phương pháp phương tiện mà kẻ tấn
công sử dụng.
Tóm
lại khi đánh giá hành vi chống trả có cần thiết hay không phải xem xét một cách
toàn diện tất cả các tình tiết của vụ án, trong đó đặc biệt là tâm lý, thái độ
của người phòng vệ khi xảy ra sự việc, họ không có điều kiện để bình tĩnh lựa
chọn chính xác phương pháp, phương tiện thích hợp để chống trả nhất là trong
trường hợp họ bị tấn công bất ngờ, chỉ coi là vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng khi sự chống trả rõ ràng là quá đáng.
Cũng
coi là phòng vệ chính đáng, nếu trong một hoàn cảnh cụ thể, một người tưởng lầm
rằng người khác có hành vi xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của
mình hay của người khác mà họ gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ của người
đó. Khoa học luật hình sự gọi trường hợp phòng vệ này là phòng vệ tưởng tượng.
Phòng
vệ tưởng tượng là gây thiệt hại cho người khác do tưởng lầm rằng người này đang
có hành vi xâm phạm nguy hiểm cho xã hội.
Người
có hành vi phòng vệ tưởng tượng chỉ được coi là không có lỗi khi hoàn cảnh cụ
thể cho phép người đó tin một cách hợp lý là có sự xâm phạm thực sự và họ tin
rằng là mình không bị nhầm, nếu đặt vào hoàn cảnh của người khác thì ai cũng sẽ
bị nhầm như vậy. Ví dụ: Trong đêm tối, chị H đi gọi chồng ở xã bên về nhà có
người cần gặp. Khi đi qua đoạn đường vắng, chị bị 3 tên ra chặn đường cướp của
chị đôi hoa tai bằng vàng. Khi gặp chồng, chị kể cho anh nghe về việc chị vừa
bị cướp. Chồng chị H mượn con dao rồi dùng xe đạp đưa vợ về. Khi đi qua đoạn
đường mà chị H vừa bị cướp thì có 3 người từ trong bụi cây đi qua đường; thấy
vợ chồng chị H họ đứng lại. Chị H nói với chồng: “ Đúng bọn này vừa cướp hoa
tai rồi”. Chồng chị H xướng xe cầm dao lao vào 3 người chém túi bụi làm cho cả
bản án sơ thẩm đều bị thương. Sau khi sự việc xảy ra mới biết 3 người này là tổ
bảo bệ của Hợp tác xã vừa đi coi đồng về. Trong trường hợp này, hành động dừng
lại giữa đường của 3 người trong hoàn cảnh cụ thể này làm cho vợ chồng chị H
tin là bọn cướp và không chỉ có vợ chồng chị H mà ai trong hoàn cảnh này cũng
sẽ tin như vậy, nên được coi là phòng vệ tưởng tượng và không phải chịu trách
nhiệm hình sự . Nếu sự lầm tưởng lại không có căn cứ và trong hoàn cảnh cụ thể
đó mọi người đều không thể lầm tưởng thì người có hành vi xâm hại đến tính mạng
sức khoẻ của người kác phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự và hành vi của họ
là hành vi tội phạm do cố ý. Ví dụ: Nguyễn Văn H đang dạo chơi trong Công viên
có nhiều người qua lại, thấy một người đang ngồi ở ghế đá đứng dậy lững thững
đi về phía mình mà không nói năng gì, H liền rút dao trong người ra đâm người
này một nhát vào bụng làm người này ngã gục. Sau khi sự việc xảy ra H cho rằng
tưởng người này đến cướp tài sản của mình, nhưng căn cứ vào hoàn cảnh thực tế
lúc xảy ra sự việc thì trường hợp của H không phải là phòng vệ tưởng tượng, nên
H phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.
Hiện
nay, trong một số sách báo pháp lý,vấn đề phòng vệ tưởng tượng cũng còn có
những quan điẻm khác nhau: Có quan điểm cho rằng phòng vệ tưởng tượng không
phải là phòng vệ chính đáng, vì không có cơ sở của quyền phòng vệ, vấn đề trách
nhiệm hình sự vẫn được đặt ra và được giải quyết như mọi trường hợp sai lầm
khác.6
Pháp
luật Việt nam không thừa nhận hành vi phòng vệ trước ( phòng vệ từ xa ), tức là
chưa có sự tấn công mà đã có hành vi nhằm ngăn chặn sự tấn công như: đấu giòng
điện vào cánh cửa đề phòng trộm, dùng bẫy để dề phòng kẻ gian...Nếu việc phòng
vệ trước này lại gây ra hậu quả làm chết người hoặc gây thương tích cho người
khác thì họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự như các trường hợp tội phạm thông
thường ( giết người hoặc cố ý gây thương tích). Tuy nhiên, thực tiễn xét xử nếu
hành vi phòng vệ trước lại gây thiệt hại cho đúng kẻ phạm pháp thì người phạm
tội cũng được chiếu cố giám nhẹ đáng kể. Ví dụ: Gia đình Trần Văn N thường
xuyên bị mất trộm gà, N đã nhiều đêm thức trắng để phục bắt kẻ trộm nhưng không
được, N bèn lấy một đoạn giây thép buộc vào cánh cửa chồng gà và cho dòng điện
220 Vol chay qua. Để bảo đảm an toàn cho những người trong gia đình mình, N dặn
mọi người phải cẩn thận; trước khi đi ngủ mới được đấu điện vào và sáng thức
dậy phải rút điện ra. đến đêm thứ 9 thì kẻ trộm vào và bị điện giật chết, trên
tay kẻ trộm còn cầm một bao tải trong đựng 4 con gà. Mặc dù N bị truy cứu trách
nhiệm hình sự vể tội giết người theo khoản 2 Điều 101 Bộ luật hình sự, nhưng
Toà án chỉ phạt N 3 năm tù (dưới mức thấp nhất của khung hình phạt) nhưng vẫn
được nhân dân đồng tình, thậm chí còn có ý kiến cho rằng không nên truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với N vì kẻ bị chết là đáng đời, ai bảo đi ăn trộm. ở
đây có vấn đề mâu thuẫn giữa ý thức pháp luật với hành vi nguy hiểm cho xã hội,
cũng giống như trường hợp đánh chết kẻ trộm cắp khi bị bắt vẫn bị truy cứu
trách nhiệm hình sự. Tuy vậy chúng tôi vẫn thấy rằng các nhà làm luật cũng nên
tính cả đến các yếu tố truyền thống, phong tục, tâm lý của người Việt nam trong
trường hợp “ phòng vệ trước”. Pháp luật của một số nước kể cả các nước phát
triển vẫn quy định trong một số trường hợp phòng vệ trước không phải bị truy
cứu trách nhiệm hình sự. Nếu ở nước ta không thừa nhận hành vi phòng vệ trước thì
cũng nên quy định trong một số trường hợp tội phạm do phòng vệ trước được giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự một cách đáng kể. Phòng vệ trước cũng là trường hợp
phòng vệ quá sớm, tức là chưa có hành vi tấn công đã có hành vi phòng vệ.
Phòng
vệ chính đáng không phải là tội phạm, nhưng nếu hành vi chống trả rõ ràng quá
mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi xâm hại thì là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Giới
hạn của phòng vệ chính đáng chính là hành vi gây thiệt hại của người phạm
tội cần thiết với hành vi xâm phạm, nếu
không cần thiết mà gây thiệt hại lớn hơn là vượt giới hạn phòng vệ chính đáng.
Cần thiết hay không cần thiết, thiệt hại gây ra lớn hơn hay ngang bằng với hành
vi xâm phạm không thể tính bằng phương pháp số học như 5 lớn hơn các số đứng
trước nó và nhỏ hơn các số đứng sau nó, mà phải căn cứ vào tính chất và mức độ
nguy hiểm của hành vi xâm phạm và tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phòng
vệ. Cần thiết càng không phải là ngang bằng theo kiểu A đấm B hai cái thì B
cũng chỉ được đấm lại A hai cái, nếu đấm từ cái thứ ba trở đi là vượt quá; cần
thiết cũng không có nghiẽa là A gây cho B thiệt hại như thế nào thì B cũng chỉ
được gậy thiệt hại cho A như vậy. Bản thân việc phòng vệ chính đáng là ngăn chặn,
đẩy lùi hành vi xâm phạm trái pháp luật của một người đối với mình hoặc đối với
người khác. Sự vượt quá ở đây chính là sự vượt quá cái giới hạn mà pháp luật
cho phép. Tuy nhiên trong thực tế, pháp luật không thể dự liệu hoặc liệt kê
từng trường hợp cụ thể các giới hạn đó được mà phải tuỳ thuộc vào các yếu tố,
các tình tiết thực tế khi xảy ra vụ án. Ví dụ: Trần Văn Đ là nhân viên bảo vệ
cầu X. Cầu bị hỏng đang sửa chữa, đã có biển báo "cấm người qua lại".
Nguyễn Văn H đi qua cầu, Đ ngăn lại và bảo H xuống sông đi đò. H không nghe,
gây gổ định đánh Đ, nhưng mọi người can ngăn nên H phải quay lại và đe doạ:
"Tao sẽ giết mày". H đi rồi, Đ sợ H sẽ quay lại đánh mình nên vào
trong lán lấy con dao nhọn giấu vào lưng quần. Sau đó 20 phút, H cùng với em là
P bơi thuyền đến, thuyền vừa cặp bờ, H nhảy lên đi thẳng đến chỗ Đ nói những
lời thách thức và xông vào đấm Đ túi bụi. Đ bị dồn đánh lại nhìn thấy P ở dưới
thuyền cầm dao chạy lên, Đ đã rút dao đam ra nhiều nhất vào bụng H rồi bỏ chạy.
Do bị đâm thủng dạ dày, dập gan, vỡ lá lách nên H bị chết. Hành vi phòng vệ của
Trần Văn Đ trong trường hợp này là không cần thiết với hành vi xâm phạm, vì
trong lúc nạn nhân chỉ tấn công Đ bằng
tay, em của H tuy có cầm dao, nhưng còn đang ở dưới bờ sông cách xa Đ. Trong
bối cảnh như vậy, Đ đã dùng dao đâm chết H là vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng.
Một
người muốn được xác định là giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng, trước hết phải thoả mãn các dấu hiệu và điều kiện của chế định phòng vệ
chính đáng, chứ không thoả mãn điều kiện "cần thiết" giữa hành vi xâm
phạm và hành vi phòng vệ.
Tội
giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được thực hiện dưới hình
thức lỗi cố ý mà chủ yếu là lỗi cố ý gián tiếp - cố ý không xác định. Nếu vô ý
làm chết người tấn công mình thì không phải là giết người do vượt quá giớ hạn
phòng vệ chính đáng. Ví dụ: A đang cầm súng làm nhiệm vụ bảo vệ, thì bị B say
rượu đánh. A không đánh lại vì biết B say rượu, nhưng trong lúc giằng co để B
không đánh được mình nên đã vô ý để súng làm B bị chết.
Người
bị chết phải là người đã có hành vi xâm phạm đến các lợi ích cần được bảo vệ.
Nếu người có hành vi phòng vệ lại gây thiệt hại cho người thứ ba thì không phải
giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng mà tuỳ thuộc vào từng
trường hợp mà kết tội người phạm tội về tội giết người hoặc vô ý làm chết
người. Ví dụ: A đánh B, nhưng vì B không đánh lại được A nên B giết con của A
để đẩy lùi sự tấn công của A thì hành vi của B thuộc trường hợp giết người theo
Điều 101 Bộ luật hình sự . Hoặc A dùng dao đuổi chém B, B bị vấp ngã, thấy A
vẫn cầm daolao vào mình, B liền rút dao găm phóng lại phía A nhưng không trúng
A mà trúng vào ngực C làm C chết tại chỗ, vì lúc đó C thấy A đuổi B nên chạy ra
để ngăn cản hành vi của A nhưng không may lại trúng dao của B. Hành vi của B
đối với C là vô ý làm chết người chứ không phải giết người do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng.
Tội
giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng chỉ có thể xảy ra khi người
có hành vi xâm phạm (nạn nhân) bị chết. Nếu nạn nhân chỉ bị thương và có tỷ lệ
thương tật từ 31 % trở lên thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 106 Bộ
luật hình sự về tội cố ý gây thương tích
do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Về
chủ thể
Chỉ
những người đủ 16 tuổi trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết
người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, bởi vì tội này khoản 1 Điều 96
là tội ít nghiêm trọng có mức cao nhất của khung hình phạt là 2 năm tù; khoản 2
Điều 96 là tội nghiêm trọng có mức cao nhất của khung hình phạt là 5 năm năm
tù, mà người dưới 16 tuổi thì chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm
rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình
sự).
B.
CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1.
Giết một người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng ( khoản 1 Điều 96)
Trong
trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng mà giết chết một người thì
người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 96 Bộ luật
hình sự có khung hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt
tù từ ba tháng đến hai năm, là tội phạm ít nghiêm trọng.
Nếu
giết chết một người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và còn gây thương
tích cho một người với tỷ lệ thương tật từ 31 % trở lên cũng do vượt quá giớ
hạn phòng vệ chính đáng, thì người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm
hình sự thêm tội "cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của
người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng" theo khoản 1 Điều 106
Bộ luật hình sự, nếu gây thương tích cho nhiều người và tất cả những người này
đều do vướt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì người phạm tội còn bị truy cứu
trách nhiệm hình sự thêm tội"cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng" theo khoản 2
Điều 106 Bộ luật hình sự.
Nếu
có một người bị giết do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và có một hoặc
nhiều người bị thương tích nhưng không do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
thì người phạm tội ngoài việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người
do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo khoản 1 Điều 96, thì còn bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội "cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khoẻ của người khác" theo Điều 104 Bộ luật hình sự.
2.
Giết nhiều người
do
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng ( khoản 2 Điều 96)
Giết
nhiều người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là giết hai người trở lên
và tấ cả những người bị giết đều do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Nếu
có nhiều người chết, nhưng chỉ có một người bị giết do vượt quá giới hạn phòng
vệ chính đáng thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1
Điều 96 Bộ luật hình sự đối với người bị giết do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng, còn những người khác tuỳ thuộc vào hành vi phạm tội cụ thể mà có
thể bị truy cứu thêm tội "giết người " theo Điều 93 Bộ luật hình sự,
tội "giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" theo
Điều 95 Bộ luật hình sự, tội "làm chết người trong khi thi hành công
vụ" theo Điều 97 Bộ luật hình sự hoặc tội "vô ý làm chết người"
theo Điều 98 Bộ luật hình sự...
Nếu
có nhiều người chết, nhưng chỉ có một người bị giết do vượt quá giới hạn phòng
vệ chính đáng còn những người khác bị giết là do phòng vệ chính đáng thì thuộc
trường hợp giết một người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và người
phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 96 Bộ luật hình
sự .
Giết
nhiều người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, người phạm tội có thể bị
phạt từ hai năm đến năm năm tù.
Khi
xét xử vụ án giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, Toà án cần
phân tích làm rõ hành vi trái pháp luật của nạn nhân, nhằm tránh tâm lý cho
rằng giết người nhưng mức hình phạt lại rất nhẹ, kể cả trường hợp giết nhiều
người hình phạt cao nhất cũng chỉ tới 5 năm, đồng thời giáo dục ý thức pháp
luật cho mọi người thấy được quyền phòng vệ chính đáng của mình khi bị người
khác xâm phạm và giới hạn cho phép khi thực hiện quyền đó.
Xem các tội từ điều 105 - 111 tại đây
Xem các tội từ điều 112 - 117 tại đây
Xem các tội từ điều 105 - 111 tại đây
Xem các tội từ điều 112 - 117 tại đây
Xem các tội từ điều 118 - 122 tại đây
1
Xem Đinh Văn Quế "người bị hại trong vụ án hình sự" Tạp chí Toà án
nhân dân số 12 năm 1997.
2 Xem Đinh Văn Quế "Xác định tuổi của
người bị hại trong vụ án hình sự như thế nào". Tạp chí dân
chủ và Pháp luật số 7 năm 1999
3
Theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự thì tội phạm rất nghiêm trọng
là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt
đối với tội ấy là đén mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội
phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt
đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
4 Xem Đinh Văn Quế " Bình luận phần chung
Bộ luật hình sự năm 1999" NXB
5 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5-1-1986. Trang 14, 15 Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng. Toà án nhân dân tối cao năm 1990
6 Xem Nguyễn Ngoc Hoà- “Tội phạm trong luật
hình sự Việt nam” . NXB Công an nhân dân. Năm 1991- tr 163.
Khuyến Mãi








