ĐINH VĂN QUẾ
THẠC SĨ LUẬT HỌC – TOÀ ÁN NHÂN
DÂN TỐI CAO
BÌNH LUẬN BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999
PHẦN CÁC TỘI PHẠM
CHƯƠNG XII
CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH MẠNG, SỨC KHOẺ,
NHÂN PHẨM, DANH DỰ CỦA CON NGƯỜI
NHÀ
XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
5.
TỘI LÀM CHẾT NGƯỜI TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ (ĐIỀU 97)
Xem các tội trước tại đây
Làm
chết người trong khi thi hành công vụ là hành vi dùng vũ lực ngoài những trường
hợp được pháp luật cho phép trong khi thi hành công vụ dẫn đến chết người
A.
CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1.
Đối với người phạm tội
Người
phạm tội (chủ thể) phải là người đang thi hành một công vụ (nhiệm vụ công).
Công vụ này có thể là đương nhiên do nghề nghiệp hoặc do công tác quy định như:
cán bộ chiến sĩ công an nhân dân, bộ đội biên phòng, kiểm lâm, hải quan, bảo vệ
v.v...
Ngoài
ra, cũng có thể được coi là chủ thể của tội phạm này nếu những người tuy không
có nhiệm vụ, nhưng đã tham gia đấu tranh chống những hành vi xâm phạm đến lợi
ích Nhà nước hoặc lợi ích hợp pháp của công dân. Ví dụ: T là giáo viên, trên
đường đến trường dạy học, thì gặp một tổ bảo vệ đang đuổi bắt một kẻ trộm.
Người tổ trưởng đưa cho T khẩu súng CKC đã lắp đạn sẵn vì biết T đã có một thời
gian phục vụ trong quân đội. Nhận được súng, T nhằm vào kẻ trộm bắn liền hai
phát, trong khi chưa hô đứng lại, chưa bắn cảnh cáo làm tên trộm chết tại chỗ.
Khi
xác định tư cách chủ thể của tội phạm này, phải gắn liền hành vi xâm phạm tính
mạng của người phạm tội với nhiệm vụ mà
họ được giao. Toàn bộ hành vi phạm tội và những yếu tố khác của tội phạm này
đều liên quan đến tư cách chủ thể.
Hành
vi dùng vũ lực xâm phạm tính mạng của người khác trước hết là hành vi sử dụng
vũ khí ngoài các trường hợp pháp luật cho phép.
Vũ
khí, theo Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (ban hành theo
Nghị định số 47/CP, ngày 12-8-1996 của Chính phủ) bao gồm: vũ khí quân dụng, vũ
khí thể thao, súng săn và vũ khí thô sơ.
Vũ
khí quân dụng là các loại súng trường, súng ngắn, súng liên thanh; cá loại
pháo, dàn phóng, bệ phóng tên lửa, súng cối, hoá chất độc và nguồn phóng xạ,
các loại đạn; bom, mìn, lựu đạn, ngư lôi, thuỷ lôi, vật liệu nổ quân dụng, hoả
cụ và vũ khí khác dùng cho mục đích quốc phòng - an ninh.
Vũ
khí thể thao là các laoij súng trường, súng ngắn thể thao chuyên dùng các cỡ;
các loại súng hơi, các loại vũ khí khác dùng trong luyện tập, thi đấu thể thao
và các loại đạn dùng cho các loại súng thể thao nói trên.
Vũ
khí thô sơ là dao găm, kiếm, giáo, mác, đinh ba, đại đao, mã tấu, quả đấm bằng
kim loại hoặc chất cứng, cung, nỏ, côn các loại và các loại khác do Bộ Nội vụ
quy định.
Người
sử dụng các loại vũ khí thuộc loại phải có giấy phép sử dụng hoặc được cơ quan
có thẩm quyền giao cho sử dụng mà xâm phạm tính mạng, sức khoẻ người khác trong
khi thi hành công vụ mới thuộc trường hợp phạm tội quy định tại Điều 103 Bộ
luật hình sự. Nếu việc sử dụng là trái phép thì không được coi là phạm tội do
thi hành công vụ. Ví dụ: Một người nhặt được một quả lựu đạn, nhưng không nộp
cho cơ quan nhà nước. Ban đêm nghe mọi người hô bắt trộm, người này đã lấy lựu
đạn cùng mọi người đuổi kẻ trộm rồi rút chốt lựu đạn ném về phía kẻ trộm. Lựu
đạn nổ làm kẻ trộm chết và một số người bị thương.
Tuy
nhiên, trong một số trường hợp người không được giao vũ khí và cũng không có
quyền sử dụng vũ khí, nhưng trong lúc làm nhiệm vụ, hoàn cảnh cụ thể buộc họ
phải sử dụng vũ khí thì thực tiễn xét xử cũng chấp nhận họ phạm tội trong khi
thi hành công vụ. Ví dụ: N và C là anh em ruột, C là sĩ quan quân đội về nghỉ
phép có mang khẩu súng K54. Vào đêm giao thừa, N đem 20 triệu đến xã bên trả
nợ. N rủ C cùng đi vì sợ cướp mà C là người có súng. Khi ra khỏi nhà 100 m thì
gặp bạn của C đến chơi. C bảo N đi một mình còn C quay về tiếp bạn. Thấy vậy N
hỏi C cho mượn súng để phòng thân. C chàn chừ giây lát nhưng vẫn lấy súng cho N
mượn vì C biết N đã từng chiến đấu ở chiến trường và cũng là sĩ quan quân đội
nay phục viên. Sau khi trả nợ xong, trên đường về nhà , N gặp tổ bảo vệ bắt
được kẻ trộm đang đưa về Uỷ ban nhân dân xã để giải quyết; lợi dụng việc N nói
chuyện với tổ bảo vệ, kẻ gian bỏ chạy. Thấy tổ bảo vệ không ai có súng, N liền
rút súng cùng tổ bảo vệ đuổi theo kẻ trộm; khi tới gần N chưa bắn cảnh cáo mà
chĩa thẳng súng vào kẻ gian bắn liền hai phát làm cho tên này chết tại chỗ.
Ngoài
hành vi sử dụng vũ khí, còn có nhưng người không được giao vũ khí và trong khi
thi hành công vụ họ cũng không sử dụng vũ khí mà chỉ sử dụng những công cụ cầm
tay như gậy gộc, thậm chí chỉ dùng chân tay. Nhưng họ được giao nhiệm vụ hoặc
tự nguyện tham gia cùng với người làm
nhiệm vụ mà gây chết người, gây thương tích cho người khác thì cũng được coi là
phạm tội trong khi thi hành công vụ.
Người
thi hành công vụ sử dụng vũ khí hoặc vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật
cho phép thì mới là hành vi phạm tội. Nếu họ đã thực hiện đầy đủ những quy định
của pháp luật vê việc sử dụng vũ khí trong khi làm nhiệm vụ mà vẫn gây chết
người thì không phải là phạm tội.
Việc
xác định thế nào là sử dụng vũ khí ngoài những trường hợp pháp luật cho phép
căn cứ vào điểm 1 phần III nghị định số 94 HĐBT ngày 2-7-1984 của Hội đồng Bộ
trưởng. Nội dung của nghị định này là:
Trong
khi thi hành công vụ bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, người
dược giao sử dụng vụ khí chỉ được nổ súng vào các đối tượng sau:
Những
kẻ đang dùng vũ lực gây bạo loạn, đang phá hoại, đang hành hung cán bộ, chiến
sĩ bảo vệ, đang tấn công đối tượng hoặc mục tiêu bảo vệ. Những kẻ đang phá trại
giam, cướp phạm nhân, những phạm nhân đang nổi loạn, cướp vũ khí, phá trại giam
hoặc dùng vũ lực uy hiếp tính mạng các cán bộ chiến sĩ làm nhiệm vụ quản lý,
canh gác, dẫn giải tội phạm; những người phạm tội nguy hiểm đang bị giữ, đang bị dẫn giải hoặc
đang có lệnh bắt mà chạy trốn. Những kẻ không tuân lệnh của cán bộ, chiến sĩ
đang tiến hành nhiệm vụ tuần tra, canh gác, khám, lại lợi dụng vũ lực chống
lại, uy hiếp nghiêm trong tính mạng cán bộ thừa hành nhiệm vụ hoặc tính mạng
của nhân dân. Bọn lưu manh, côn đồ đang giết người, hiếp dâm, gay rối trật tự
rất nghiêm trọng đang dùng vũ lực cướp phá tài sản xã hội chủ nghĩa hoặc tài
sản của công dân. Người điều khiển phương tiện không tuân lệnh, cố tình chạy
trốn khi người kiểm soát phương tiện giao thông vận tải ra lệnh và đã biết rõ
trên phương tiện có vũ khí hoặc tài liệu phản động, tài liệu bí mật quốc gia,
có tài sản đặc biệt quý giá của Nhà nước; hoặc có bọn phạm tội, bọn lưu manh,
côn đồ đang sử dụng phương tiện để bắt đối tượng.
Trước
khi nổ súng bắn chết các đối tượng trên, người thi hành công vụ phải ra lệnh
hoặc bắn cảnh cáo mà đối tượng không chấp hành, thì được coi là không có tội
(trừ trường hợp bắn người điều khiển phương tiện). Ví dụ:
Khoảng
14 giờ ngày 16-10-1999 tổ tuần tra kiểm soát lâm sản Trộ Mợng thuộc Hạt kiểm
lâm Phong Nha, do anh Hoàng Minh Huệ làm Trạm trưởng cùng các anh Lê Ngọc
Thương, Vương Công Đến, Phạm Văn Sáu, Trần Xuân Viết, Trần Văn Trị đều là nhân
viên hợp đồng, bảo vệ rừng đi tuần tra kiểm soát dọc sông Troóc. Khi đến bến đò
ông Hành thuộc thôn Bàu Sen xã Phúc Trạch, huyện Bố Trạch, tổ tuần tra phát
hiện 10 phiến gỗ Huê, đang nằm dưới nước; anh Hoàng Minh Huệ thông báo:
"Ai là chủ gỗ thì đến nhận". Nhưng không có ai đến nhận, nên anh Huệ
cho số nhân viên cùng đi bốc 10 phiến gỗ lên thuyền chở về kho của trạm kiểm
lâm Trộ Mợng.
Khoảng
16 giờ cùng ngày, trong lúc đang lập biên bản tạm giữ, thì Trần Văn Thắng ở xã
Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, đi trên chiếc thuyền máy do Nguyễn Văn Thắng ở xã
Quảng Minh, huyện Quảng Trạch điều khiển chạy đến Trạm kiểm lâm Trộ Mợng. Khi
đến nơi, Trần Văn Thắng một tay cầm dao, một tay cầm que sắt, thấy anh Huệ đang
đứng ở sân, Thắng chửi: "Đ. mẹ ! răng mi bắt gỗ tao". Vừa chửi, Thắng
vừa dùng dao chém vào đầu anh Huệ, anh Huệ đưa tay lên đỡ chúng vào phía ngoài
cẳng tay phải, Thắng lại dùng que sắt đánh vào đầu, bả vai trái của anh Huệ.
Vừa đánh, Thắng vừa đe doạ buộc số nhân
viên kiểm lâm hợp đồng bảo vệ của trạm, bốc gỗ từ trong kho xuống thuyền, nếu
không Thắng sẽ chém. Số nhân viên hợp đồng do sợ, đã cùng Nguyễn Văn Thắng bốc
10 phién gỗ Huê từ trong kho xuống bến đò cho Trần Văn Thắng. Lúc này anh Hoàng
Minh Huệ đi đến cửa phòng ngủ, băng lại vết thương ở tay. Trần Văn Thắng chạy
đến, dí mũi dao vào phía trên ngực trái của anh Huệ; anh Huệ vùng ra, đi xuống
thuyền của trạm đậu ở dưới sông lấy khẩu súng AK số 0255 giấy phép sử dụng số
00090 cấp ngày 19/4/1999. Súng đã lắp sẵn hộp tiếp đạn; anh Huệ xách súng đi
lên trạm, sát phía ngoài sân, kẹp súng vào giữa hai chân, dùng tay phải mở khoá
an toàn lên đạn, kẹp súng vào nách phải, giơ súng lên trời bóp cò súng nổ 3
phát cảnh cáo, nhưng Trần Văn Thắng vẫn dùng que sắt đập phá tài sản trong
Trạm. Thấy vậy, anh Huệ cầm súng đi đến cách Thắng khoảng 3m, yêu cầu Thắng bỏ
dao, que sắt xuống, không được đập phá, chấm dứt việc cướp gỗ, nhưng Thắng
không những không chấp hành, mà tiếp tục cầm dao đòi giết anh Huệ. Lúc này tay
trái của anh Huệ đang bị thương, nên anh Huệ dùng tay phải kẹp súng vào nách hạ
nòng súng hướng vào chân Thắng bóp cò, đạn nổ 3 phát, một viên trúng vào đầu
gối chân phải của Thắng đạn hướng từ trước ra sau, còn 2 viên trúng vào vùng
ngang lưng, đạn hướng từ sau ra trước . Sau 3 tiếng nổ thấy Thắng bị ngã xuống
đất, anh Huệ gọi người đưa Thắng xuống bến thuyền đưa vào cấp cứu tại Bệnh viện
Việt Nam - Cu Ba Đồng Hới, đến ngày 18/10/1999 Trần Văn Thắng chết.
Anh Hoàng Minh Huệ sau khi bị chém, bị đánh
vào đầu vào cánh tay phải điều trị tại Bệnh viện tỉnh Quảng Trị, kết quả giám
định anh Hoàng Minh Huệ có tỷ lệ thương tật là 4% tạm thời.
Việc
anh Hoàng Minh Huệ nổ súng bắn chết Trần Văn Thắng được coi là không phạm tội,
vì Thắng đang có hành vi dùng vũ lực uy hiếp cán bộ kiểm lâm trong đó có anh
Huệ, buộc anh Huệ và các cán bộ kiểm lâm phải đẻ cho Thắng cướp đi những tấm gỗ
Huê; anh Huệ đã bắn cảnh cáo và ra lệnh cho Thắng chấm dứt hành vi cướp phá tài
sản và uy hiếp tính mạng sức khoẻ của
chính bản thân anh Huệ và các cán bộ kiểm lâm, nhưng Thắng không tuân theo mà
cong hung hăng hơn, buộc anh Huệ phải nổ súng bắn vào người Thắng để ngăn chặn.
Nếu
chưa làm thủ tục mà bắn chết ngay đối tượng thì coi là phạm tội trong khi thi
hành công vụ. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào, người thi hành công vụ cũng
phải ra lệnh hoặc bắn cảnh cáo trước rồi mới được bắn vào đối tượng. Có những
trường hợp đặc biệt, cấp bách không có biện pháp nào khác để ngăn chặn ngay đối
tượng đang thực hiện hành vi phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng hoặc để thực
hiện quyền tự vệ chính đáng của mính, thì được nổ súng ngay vào đối tượng, nếu
đối tượng bị chết cũng được coi là không phạm tội. Ví dụ: một nhân viên bảo vệ
kho vật tư Nhà nước bị một số tên đang dùng súng uy hiếp thủ kho để cướp tài
sản, người bảo vệ này đã bắn chết ngay tên có súng mà không cần phải ra lệnh
hoặc bắn cảnh cáo trước.
Nghị
định số 94/HĐBT ngày 2-7-1984 của Hội đồng Bộ trưởng chỉ hướng dẫn các trường
hợp nổ súng của người đang thi hành công vụ, còn đối với các trường hợp sử dụng
vũ khí khác hoặc dùng vũ lực lại phải căn cứ vào các Thông tư, Chỉ thị của các
cơ quan bảo vệ pháp luật ở Trung ương như: Chỉ thị số 07 ngày 22-12-1983 của
Toà án nhân dân tối cao; nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5-1-1986, Nghị quyết số
04/HĐTP ngày 29-11-1986 và Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 16-11-1988 của Hội đồng
thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cùng với các báo cáo tổng kết hoặc sơ kết
hàng năm về công tác xét xử đối với loại tội phạm này. Từ đó mà xác định tính
trái pháp luật của việc sử dụng vũ khí hoặc vũ lực được chính xác hơn.
Người
phạm tội thực hiện hành vi xâm phạm đến tính mạng của người khác trong khi thi
hành công vụ là do cố ý hoặc vô ý. Chính vì vậy, tội danh của tội này chỉ ghi
"làm chết người", mà không ghi giết người trong khi thi hành công vụ.
Tuy nhiên trường hợp vô ý làm chết người trong khi thi hành công vụ chỉ xẩy ra
trong trường hợp người bị chết không có hành vi xâm phạm đến các lợi ích cần
bảo vệ à họ chỉ là người đi cùng với người có hành vi xâm phạm đến các lợi ích
cần bảo vệ, người phạm tội không nhằm vào họ nhưng do dùng vũ lực với người có
hành vi xâm phạm nên có thể gây ra cái chết cho người khác. Cũng chính vì vậy
mà có ý kiến cho rằng, nếu coi hành vi vô ý làm chết người trong khi thi hành
công vụ cũng giống như hành vi cố ý gây chết người trong khi thi hành công vụ
và cùng quy định trong một điều luật là không hợp lý, mà lẽ ra phải quy định thành
hai tội: Tội "xâm phạm tính mạng người khác trong khi thi hành công
vụ" và tội "vô ý làm chết người trong khi thi hành công vụ" và
hình phạt đối với tội vô ý làm chết người trong khi thi hành công vụ phải nhẹ
hơn tội xâm phạm tính mạng người khác trong khi thi hành công vụ.
2.
Về phía nạn nhân
Nạn
nhân ( người bị hại ) là những người đang có hành vi xâm phạm đến lợi ích mà
người phạm tội có nhiệm vụ bảo vệ. Hành
vi xâm phạm đến các lợi ích đó phải là hành vi trái pháp luật. Ví dụ: Một người
vừa trộm cắp xe đạp đang chạy trốn; một lái xe chở hàng lậu không chịu dừng xe
để kiểm tra; một người không chấp hành lệnh khám nhà, khám người, khám đồ vật
của cơ quan điều tra v.v... Tuy nhiên, cũng có trường hợp nạn nhân không có
hành vi trái pháp luật, nhưng họ bị chết hoặc bị thương là vì hành vi của người
đang có hành vi xâm phạm đến lợi ích cần được bảo vệ. Ví dụ: một người đi nhờ
xe chở hàng lậu, người lái xe đã cố tình không chấp hành lệnh kiểm tra mà lái
xe chạy trốn, buộc người làm nhiệm vụ phải nổ súng buộc xe dừng lại, nhưng đạn
trúng người đi nhờ xe làm người này bị chết.
B.
CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1.
Làm chết một người trong khi thi hành công vụ ( khoản 1 Điều 97)
Nếu
người thi hành công vụ do sử dụng vũ khí hoặc vũ lực ngoài những trường hợp pháp
luật cho phép mà chỉ làm chết một người thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo khoản 1 Điều 97 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 2 năm đến 7 năm tù
là tội phạm nghiêm trọng . So với khoản 1 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1985 quy
định về tội phạm này thì khoản 1 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn, do
đó Toà án chỉ được áp dụng khoản 1 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với
hành vi được thực hiện từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 , nếu hành vi làm chết người
trong khi thi hành công vụ được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 thì Toà
án phải áp dụng khoản 1 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1985 để xét xử đối với
người phạm tội.
Nếu
làm chết một người và còn làm bị thương một người hoặc làm bị thương nhiều
người có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên thì tuỳ trường hợp cụ thể mà người
phạm tội còn phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 107
Bộ luật hình sự. Ví dụ: Trần văn T là đội viên đội tuần tra bảo vệ Cảng. Trong
khi đi tuần tra, T phát hiện có hai thanh niên đang nấp sau một công-tơ-nơ
hàng. T thấy vậy hô: "ai ! làm gì trong đó ". Hai thanh niên nghe
tiếng hô liền bỏ chạy; T dùng súng được trang bị bắn về phía hai thanh niên khi
chưa hô đứng lại, bắn cảnh cáo làm một người chết và một người bị thương với tỷ
lệ thương tật 40%. Hành vi phạm tội của Trần Văn T bị tuy cứu trách nhiệm hình
sự về hai tội : tội làm chết người trong khi thi hành công vụ theo khoản 1 Điều
97 Bộ luật hình sự và tội gây thương tích cho người khác trong khi thi hành
công vụ theo khoản 1 Điều 107 Bộ luật hình sự.
2. Làm chết nhiều người trong khi thi hành công vụ (
khoản 2 Điều 97)
Làm chết nhiều người trong khi thi hành công vụ là trường
hợp người thi hành công vụ do sử dụng vũ khí hoặc vũ lực ngoài những trường hợp
pháp luật cho phép mà làm chết hai người trở lên.
Nếu có nhiều người chết, nhưng chỉ có một người chết do
hành vi phạm tội trong khi thi hành công vụ, còn những người khác không thuộc
trường hợp trong khi thi hành công vụ thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội làm chết người trong khi thi hành công vụ theo khoản 1
Điều 97, còn đối với người khác bị chết tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà
nnpt có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về những tội danh tương ứng với
hành vi gây chết người. Ví dụ: Trần Tuấn A là dân quân xã K được giao nhiệm vụ
dẫn giải hai đối tượng là Hoàng N và Bùi Văn T bị bắt quả tang về tội trộm cắp
tài sản về Công an huyện. Trên đường dẫn giải, N và T tìm cách bỏ trốn, nên A
đã bắn chết N khi chưa làm đầy đủ thủ tục như hô đứng lại, bắn cảnh cáo. T thấy
N bị bắn chết tại chỗ, nên sợ hãi quỳ xuống xin A tha cho, nhưng vì đang bực
tức nên A đã dùng báng súng thúc nhiều cái vào bụng T làm cho T ngất xỉu, khi đưa vào bệnh viện cấp cứu thì T
bị chết do vỡ lá lách. Hành vi phạm tội của Trần Tuấn A phạm hai tội : tội làm
chết người ( chết N ) trong khi thi hành công vụ theo khoản 1 Điều 97 và tội
giết người theo Điều 93 Bộ luật hình sự.
Những người bị chết đều phải là những người do hành vi của một người trong khi thi hành
công vụ gây ra. Nếu do hành vi của nhiều người trong khi thi hành công vụ và
hành vi của mỗi người chỉ gây ra cái chết cho một người thì không thuộc trường
hợp phạm tội này mà vẫn thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 97 Bộ luật hình sự .Ví dụ: Lê Tiến
N và Phạm Bá H đều là đội viên đội chống buôn lậu, được giao nhiệm vụ tuần tra
chặn bắt thuốc lá ngoại. Khi phát hiện có một ghe chở thuốc 555 ngoại qua trạm
kiểm soát, N cầm một khẩu súng AR15, còn
H cầm theo khẩu súng CKC và dùng xuồng máy đuổi theo ghe chở hàng lậu, khi gần
tới nơi, N và H nổ súng về phía xuồng làm hai người chết. Sau khi sự việc xảy
ra, xác định một người chết vì trúng đạn AR15 và một người chết vì trúng đạn
CKC. Trong trường hợp này, cả N và H đều phạm tội làm chết người trong khi thi
hành công vụ, nhưng mỗi người làm chết một người nên chỉ bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 97 Bộ luật hình sự.
3. Làm chết người trong khi thi hành công vụ trong trường
hợp đặc biệt nghiêm trọng khác ( khoản 2 Điều 97)
Trong khi thi hành công vụ mà làm chết hai người tở lên
là một trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Ngoài ra có thể người phạm tội chỉ làm
chết một người, nhưng lại gây ra hậu quả rất nghiêm trọng khác mà hậu quả đó
không phải là dấu hiệu cấu thành các tội phạm khác hoặc tuy đã cấu thành tội
phạm khác nhưng xem xét một cách toàn diện thì trường hợp phạm tội này phải coi
là đặc biệt nghiêm trọng.
Việc đánh giá hành vi phạm tội làm chết người trong khi
thi hành công vụ như thế nào là thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng là một
việc không dễ dàng, vì điều đó còn phụ thuộc vào vụ án cụ thể xảy ra trong một
hoàn cảnh cụ thể, ở một địa phương cụ thể, không thể có một công thức chung cho
tất cả các trường hợp phạm tội.
Tình tiết phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng
khác được Quốc hội bổ sung Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1985 vào ngày
12-8-1991, từ đó đến nay chưa có cơ quan có thẩm quyền nào giải thích hoặc
hướng dẫn như thế nào là thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác và trong
thực tiễn xét xử cũng chưa có Toà án nào áp dụng tình tiết này khi xét xử hành
vi làm chết người trong khi thi hành công vụ. Nhưng không vì thế mà cho rằng,
nhà làm luật quy định tình tiết này là không cần thiết, không phù hợp với thực
tiễn xét xử, vì về lý thuyết vẫn có thể có trường hợp trong khi thi hành công
vụ người phạm tội chỉ làm chết một người nhưng còn gây những hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng khác như: Do hành vi bắn chết người của một chiễn sỹ cảnh sát
ngoài trường hợp pháp luật cho phép nên làm cho quần chúng nhân dân bất bình,
lại bị kẻ xấu kích động nên đã tụ tập hàng nghìn người đưa xác nạn nhân đến trụ
sở các cơ quan Đảng và Nhà nước biểu tình đòi máu phải trả máu gây mất trật tự
công cộng nhiều giờ thậm chí nhiều ngày, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt chính trị
xã hội...
C. ĐƯỜNG LỐI XỬ LÝ ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI LÀM CHẾT NGƯỜI
TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ
Người phạm tội làm chết một người trong khi thi hành công
vụ bị tuy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 97 Bộ luật hình sự có khung
hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù, là tội phạm nghiêm trọng. So với khoản 1
Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1985 thì trường hợp phạm tội này nặng hơn, do đó
chỉ những người thực hiện hành vi từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị áp dụng
khoản 1 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1999 để xét xử, còn hành vi phạm tội trước
0 giờ 00 ngày 1-7-2000 thì Toà án áp dụng khoản 1 Điều 103 Bộ luật hình sự năm
1985 đối với người phạm tội. Trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết giảm
nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, thì Toà án có thể áp dụng
Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới hai năm tù, nhưng không được dưới 3 tháng tù
hoặc chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.
Người phạm tội làm chết nhiều người hoặc trong trường hợp
đặc biệt nghiêm trọng khác trong khi thi hành công vụ bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo khoản 2 Điều 97 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ bảy năm đến
mười lăm năm tù. Trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định
tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, thì Toà án có thể áp dụng Điều 47 Bộ luật
hình sự phạt dưới bảy năm tù, nhưng không được dưới hai năm tù.
Người phạm tội làm chết người trong khi thi hành công vụ
còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định
từ một năm đến năm năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù hoặc từ ngày bản án
có hiệu lực pháp luật nếu hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không
giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo.
Việc xử lý hành vi làm chết người trong khi thi hành công
vụ, phải xuất phát từ yêu cầu đấu tranh chống tội phạm, đồng thời ngăn ngừa,
hạn chế thái độ hách dịch, bừa ẩu coi thường tính mạng nhân dân của một số cán
bộ nhân viên nhà nước được giao vũ khí khi làm nhiệm vụ. Qua thực tiễn xét xử
Toà án nhân dân tối cao đã đề ra đường lối xét xử đối với loại tội phạm này như
sau:
Việc xét xử các hành vi này, ngoài việc trừng trị người
phạm tội còn có một mục đích là nhằm bảo
vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản của mọi công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước
đồng thời chống mọi biểu hiện coi thường mệnh lệnh đúng đắn của người có chức
vụ quyền hạn đang thi hành công vụ, phản ứng tiêu cực đối với những người đấu
tranh ngăn ngừa tội phạm, bảo đảm sự hoạt động đúng đán của người có chức vụ
quyền hạn, nhưng chống thái độ hách dịch, coi thường quần chúng, tệ quan liêu
mệnh lệnh, thậm chí coi thường tính mạng của người khác (Chỉ thị số 07 ngày
22-12-1983 của Toà án nhân dân tối cao).
D. PHÂN BIỆT VỚI MỘT SỐ TỘI PHẠM KHÁC
1. Với tội giết người ở Điều 93 Bộ luật hình sự
Giữa hai tội này, dấu hiệu cơ bản để phân biệt là tư cách
pháp lý của chủ thể tội phạm . Chỉ những người trong khi thi hành công vụ và vì
nhiệm vụ được giao mà làm chết người thì mới thuộc trường hợp phạm tội quy định
tại Điều 97 Bộ luật hình sự. Nếu lợi dụng nhiệm vụ được giao mà giết người thì
phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 93 Bộ luật hình sự.
Trường hợp trong khi thi hành công vụ, nhưng không vì
nhiệm vụ và việc làm chết người không liên quan gì đến nhiệm vụ đang thi hành
thì cũng không coi là làm chết người trong khi thi hành công vụ . Ví dụ: Mọt
tổng giám đốc liên hiệp các xí nghiệp chè được giao một khẩu súng K54 để phòng
thân, vì sau ngày giải phóng miền Nam tình hình an ninh ở một số nơi còn phức
tạp. Khi đi kiểm tra kỹ thuật trồng chè thấy trong khu vực trồng chè của nông
trường có nhà dân ở, nên vị Tổng giám đốc này cho rằng, dân chiếm đất của nông
trường, hai bên dẫn đến cãi nhau, vị Tỏng giám đốc bực tức đã nổ súng vào một
người trong nhà.
Cũng không coi là làm chết người trong khi thi hành công
vụ nếu như người đang có hành vi vi phạm pháp luật đã được ngăn chặn, nhưng vì
lý do nào đó mà người thi hành công vụ lại làm họ chết. Ví dụ: Mọt nhân viên
bảo vệ bắt được một người vào kho vật tư; người bảo vệ đã trói người bị tình
nghi là trộm rồi dùng báng súng thúc và người buộc họ phải khai vào kho lấy gì;
người này cố tình không khai, nên người bảo vệ bực tức đánh người này chết.
2. Với tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng
Nếu theo quy dịnh tại Điều 15 Bộ luật hình sự về phòng vệ
chính đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì tội làm chết người trong
khi thi hành công vụ chỉ là một dạng của tội giết người do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng vì, người phạm tội trong khi thi hành công vụ cũng do bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bỏa vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình
hoặc của người khác mà gây thiệt hại đến tính mạng của người có hành vi xâm
phạm. Luật hình sự của một số nước trên thế giới coi hành vi xâm phạm tính mạng
của người khác trong khi thi hành công vụ là trường hợp phạm tội do vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng. Ví dụ: Điều 109 Bộ luật hình sự Liên bang Nga7. ở nước ta do yêu cầu
của đấu tranh với những hành vi sử dụng vũ lực bừa ẩu của người thi hành công
vụ nên quy định thành một tội riêng.
Tuy nhiên, theo Bộ luật hình sự nước ta, dấu hiệu của tội
giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và tội làm chết người trong
khi thi hành công vụ theo Bộ luật hình sự năm 1999 cũng có những điểm khác
nhau:
Người phạm tội trong khi thi hành công vụ trong một số
trường hợp không có hành vi chống trả người có hành vi xâm phạm vì người bị hại
không có hành vi tấn công mà chỉ bỏ chạy hoặc không có hành vi nào vi phạm pháp
luật như trường hợp hành khách đi trên xe khách, đi trên tầu thuyền..., còn
người phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng nhất thiết phải có hành
vi chống trả lại hành vi xâm phạm của người bị hại. Như vậy, dấu hiệu cơ bản
nhất để phân biệt giữa hai tội này là có hay không có sự chống trả và người bị
hại có hay không có hành vi tấn công.
Trong trường hợp khi thi hành công vụ mà nạn hân dùng vũ
lực tấn công người thi hành công vụ và người thi hành công vụ làm cho người bị
hại chết ngoài những trường hợp pháp luật cho phép thì người phạm tội bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng còn các trường hợp khác bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm chết
người trong khi thi hành công vụ. Cũng có ý kiến cho rằng vẫn truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội làm chết người trong khi thi hành công vụ nhưng cho người
phạm tội được hưởng tình tiết phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
quy định tại điểm c khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự vì, nếu truy cứu người phạm
tội về tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì người phạm
tội phải bồi thường thiệt hại cho người bị hại, điều này sẽ trái với quy định
tại 623 Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức Nhà nước
gây ra. Tuy nhiên, theo nguyên tắc có lợi cho người phạm tội và thực tiễn xét
xử nhiều năm qua các Toà án đã coi hành vi xâm phạm tính mạng người khác trong
khi thi hành công vụ nếu như người bị hại có hành vi tấn công người phạm tội
thì truy cứu người phạm tội về tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng và vẫn buộc cơ quan chủ quản của người phạm tội phải bồi thường cho
người bị hại.
6. TỘI VÔ Ý LÀM
CHẾT NGƯỜI (ĐIỀU 98)
Vô ý làm chết người là hành vi của mọt người không thấy trước được hành vi của mình
có khả năng gây ra chết người mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hoặc
tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra chết người nhưng tin rằng hậu quả
đó không xảy ra.
A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
- Về khách quan, người phạm tội có nhưng hành vi tương tự
hành vi của tội giết người; hậu quả xảy ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
và hậu quả cũng tương tự như đối với tội giết người.
- Về ý thức chủ quan của người phạm tội và đây cũng là
dấu hiệu đặc trưng để phân biệt giữa tội vô ý làm chết người với tội giết
người. Đó là lỗi của người phạm tội, người phạm tội vô ý làm chết người thực
hiện hành vi của mình dưới hình thức lỗi do vô ý bao gồm cả vô ý vì cẩu thả và
vô ý vì quá tự tin.
Theo quy định tại Điều 10 Bộ luật hình sự thì vô ý phạm
tội là tội phạm trường hợp sau đây:
- Người phạm tội tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra
hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có
thể ngăn ngừa được.
- Người phạm tội không thấy hành vi của mình có thể gây
ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậy
quả đó
Bộ luật hình sự không quy định rõ các hình thức vô ý phạm
tội nhưng căn cứ vào nội dung quy định trên , chúng ta thấy rõ có hai hình thức
vô ý phạm tội mà khoa học luật hình sự gọi là vô ý vì cẩu thả và vô ý vì quá tự
tin.
- Vô ý vì cẩu thả
là trường hợp do cẩu thả mà người phạm tội không thấy trước khả năng gây ra hậu
quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước hoặc có thể thấy trước. Tiêu
chuẩn để xác định một người phải thấy trước và có thể thấy trước được hậu quả
nguy hiểm cho xã hội là căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra sự việc, một
người bình thường cũng có thể thấy trước; ngoài ra còn phải căn cứ vào độ tuổi,
trình độ nhận thức, trình độ văn hoá, tay nghề.v.v...
- Vô ý vì quá tự
tin là trường hợp người phạm tội thấy trước được hành vi của mình có thể
gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra
hoặc có thể ngăn ngừa được, nhưng hậu quả đó vẫn xảy ra.
B. NHỮNG TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ CỦA TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI
Vô ý làm chết một người ( khoản 1
Điều 98)
Vô ý làm chết một người là trường hợp người phạm tội tuy
thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, nhưng cho rằng hậu quả
đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được hoặc người phạm tội không thấy
hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, mặc dù phải thấy trước và có
thể thấy trước hậu quả đó và hậu quả chỉ có một người chết.
Người phạm tội vô ý làm chết một người thì bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 98 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ
sáu tháng đến năm năm tù, nến người phạm tội có nhều tình tiết giảm nhẹ quy
định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì Toà án có thể áp dụng Điều 47 Bộ
luật hình sự phạt người phạm tội dưới sáu tháng tù hoặc chuyển sang loại hình
phạt khác nhẹ hơn
2. Vô ý làm chết nhiều người (
khoản 2 Điều 98)
Vô ý làm chết nhiều người là trường hợp người phạm tội
tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, nhưng cho rằng hậu
quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được hoặc người phạm tội không
thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, mặc dù phải thấy trước
và có thể thấy trước hậu quả đó và hậu quả có từ hai người chết trở lên.
Người phạm tội vô ý làm chết nhiều người thì bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 98 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ
ba năm đến mười năm tù, nếu người phạm tội có nhều tình tiết giảm nhẹ quy định
tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì Toà án có thể áp dụng Điều 47 Bộ luật
hình sự phạt người phạm tội dưới ba năm tù, nhưng không được dưới sáu tháng tù.
7. TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI DO VI PHẠM QUY TẮC NGHỀ NGHIỆP
HOẶC QUY TẮC HÀNH CHÍNH ( ĐIỀU 99 )
Đây là trường hợp phạm tội được tách từ khoản 2 Điều 104
Bộ luật hình sự năm 1985, do đó các dấu hiệu cơ bản của tội này cũng tương tự
như tội vô ý làm chết người quy định tại Điều 98 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên,
trường hợp vô ý làm chết người quy định tại Điều 99 Bộ luật hình sự ngoài các
dấu hiệu về tội vô ý làm chết người ra còn có thêm dấu hiệu "do vi phạm
quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính". Điều 99 Bộ luật hình sự qu
định hai trường hợp phạm tội, do dó tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà Toà
án định tội "vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp" hoặc
định tội "vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc hành chính" không
được định tội " vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc
quy tắc hành chính", vì định tội như vậy không biết là tội gì.
A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp
Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp là
trường hợp làm chết người do không thực hiện đúng những quy tắc về an toàn lao
động mà người phạm tội phải có trách nhiệm hay có nghĩa vụ do nghề nghiệp quy
định. Ví dụ: một y tá tiêm thuốc Pênixiline cho người bệnh nhưng không thử phản
ứng dẫn đến bệnh nhân bị chết do phản ứng thuốc.
Những vi phạm quy tắc nghề nghiệp của người phạm tội là
những vi phạm thuộc phạm vi một ngành, một nghề do Nhà nước quy định có tính
chất nghiệp vụ để bảo đảm an toàn cho mọi người. Do làm một nghề mà nghề đó
trực tiếp liên quan đến tính mạng của con người, nên phải tuân thủ những quy
tắc an toàn, nếu vi phạm dễ dẫn đến chết
người. Cũng là vô ý làm chết người, nhưng người vi phạm quy tắc nghề nghiệp
phải chịu trách nhiệm hình sự nặng hơn.
2. Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc hành chính.
Là trường hợp làm chết người do không thực hiện đúng
những quy tắc xã hội do Luật hành chính quy định.
Những quy tắc này có thể do các cơ quan hành chính Trung ương quy định như:
Chính phủ, Thủ tướng, các Bộ, các ngành, nhưng cũng có thể do các cơ quan hành
chính ở địa phương hoặc một đơn vị sản xuất quy định. Các quy phạm hành chính
tương đối rộng, vì các quan hệ xã hội nếu không do các ngành luật khác điều
chỉnh thì hầu hết do luật hành chính điều chỉnh. Ví dụ: một người chặt cây ở
ven đường trái với quy định của cơ quan có thẩm quyền, làm đứt dây dẫn điện để
người qua đường bị điện giật chết.
B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính
làm chết một người ( khoản 1 Điều 99)
Nếu vô ý làm chết một người do vi phạm quy tắc nghề
nghiệp hoặc quy tắc hành chính thì người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo khoản 1 Điều 99 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ một năm đến
sáu năm, là tội nghiêm trọng. So với đoạn một khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự
năm 1985 thì khoản 1 Điều 99 nặng hơn, do đó các hành vi phạm tội xảy ra trước
0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới điều tra, truy tố xét
xử thì Toà án không được áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật hình sự năm 1999 để
xét xử đối với người phạm tội mà phải áp dụng đoạn một khoản 2 Điều 104 Bộ luật
hình sự năm 1985 đối với người phạm tội.
Nếu làm chết một người và còn làm bị thương một hoặc
nhiều người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính mà
thương tích của mỗi người có tỷ lệ từ 31% trở lên, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1
Điều 99 Bộ luật hình sự về tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề
nghiệp hoặc quy tắc hành chính và tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác theo khoản 1 Điều 109 Bộ luật hình sự.
2. Do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính
làm chết nhiều người ( khoản 2 Điều 99)
Làm chết nhiều người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc
quy tắc hành chính là làm chét từ hai người trở lên và tất cả những người bị
chết đều là hậu quả của hành vi vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành
chính và bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 99 Bộ luật hình sự
có khung hình phạt từ năm năm đến mười hai năm tù. So với đoạn hai khoản 2 Điều
104 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 99 nhẹ hơn, do đó các hành vi phạm
tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới điều
tra, truy tố xét xử thì Toà án được áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật hình sự năm
1999 để xét xử đối với người phạm tội
Nếu chỉ có một người bị chết do vi phạm quy tắc nghề nghiệp
hoặc quy tắc hành chính, còn những người khác chết không phải do vi phạm quy
tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính, thì người phạm tội bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 99 và tùy trường hợp mà người phạm tội còn bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 98 Bộ luật hình sự.
Nếu có hai người chết, trong đó có một người chết do vị
phạm quy tắc nghề nghiệp và một người chết do vi phạm quy tắc hành chính, thì
người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 99 Bộ luật
hình sự nhưng tội danh của người phạm tội phải được xác định là phạm tội
"vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp và quy tắc hành
chính" ( thay liên từ "hoặc"
bằng liên từ "và" ).
Theo quy định tại khoản 3 Điều 99 Bộ luật hình sự, thì
người phạm tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc
hành chính còn có thể bị Toà án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc từ một năm đến năm năm. Việc cấm người phạm tội đảm nhiệm chức vụ,
hành nghề hoặc làm công việc nhất định cần phải căn cứ vào hành vi phạm tội của
họ. nếu họ vi phạm quy tắc nghề nghiệp làm chết người thì cấm họ hành nghề có
liên quan đến cái chết của nạn nhân. Khi cấm cũng cần phải xem xét đến khả năng
thực tế nếu để họ tiếp tục hành nghề đó nữa thì có thể lại tiếp tục gây ra hậu
quả nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khỏe của người khác, không nên cấm một
cách chung chung mà phải cấm cụ thể nghề gì. Ví dụ: Cấm vận hành máy nổ trong
thời hạn 3 năm, cấm phẫu thuật trong thời hạn 2 năm...
8. TỘI BỨC TỬ (ĐIỀU 100)
Bức tử là hành vi đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp,
ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm cho người đó tự sát.
A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1. Người bị coi là phạm tội bứ tử khi có một trong những
hành vi sau đây:
-
Đối xử tàn ác với nạn nhân
Người phạm tội đã có hành vi đối xử một cách tàn nhẫn, có
hành động gây đau khổ cho người lệ thuộc mình. Sự đau khổ của nạn nhân có thể
là sự đau khổ về thể xác hoặc sự đau khổ về tinh thần như: bị đánh đập, bị bỏ
đối, bị bỏ rét, bắt làm việc nặng nhọc, không cho học hành, vui chơi...Hành vi
này không chỉ bị pháp luật cấm mà dư luận xã hội cũng lên án.
- Thường xuyên ức hiếp nạn nhân
Là
hành vi dựa vào quyền hành, sức mạnh, tiền tài để đè nén, buộc người lệ thuộc
chính mình phải chịu đựng điều bất công phi lý như: bị đánh mà không được kêu
khóc; hai người đều có lỗi như nhau nhưng chỉ phạt một người; cùng có kết quả
lao động như nhau nhưng người này được trả công ít hơn người kia v.v...
Hành
vi ức hiếp phải xảy ra thường xuyên thì mới coi là tội phạm. Nếu chỉ xảy ra một
vài lần thì chưa coi là hành vi bức tử. Ví dụ: vợ chồng Nguyễn Văn B chỉ có một
đưá con gái. Do được nuông chiều từ nhỏ nên con gái của vợ chồng B thường bỏ
nhà đi chơi, không chịu học hành; một hôm, con gái của B đi chơi về khuya, B
bực tức tát con gái một cái và nói: "lần sau còn như thế thì đừng về cái
nhà này nữa." Đêm hôm đó con gái của B đã uống thuốc ngủ tự tử .
- Ngược đãi đối với nạn nhân.
Là
hành vi đối xử một cách tàn nhẫn, trái với lẽ phải, với đạo đức giữa con cái đối
với bố mẹ, giữa các cháu với ông bà, giữa vợ chồng với nhau v.v...
Lẽ
phải và đạo đức là những quy tắc xử sự trong xã hội, những truyền thống của một
dân tộc. Người có hành vi ngược đãi là làm ngược lại những quy tắc, những
truyền thống đó như: Con cái phải kính trọng bố mẹ, vợ chồng phải có nghĩa vụ
yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, nhưng người phạm tội lại làm ngược lại. Ví dụ: Bà
Trần Thị T ở quê lên thăm con trai là Phạm Văn Đ ở thành phố, bà T làm gì cũng
bị Đ mắng là ngu, đần; đến bữa ăn, vợ chồng Đ không cho bà T ngồi ăn cùng mâm
mà bắt bà phải ăn sau ở nhà bếp. Đ còn bắt bà T phải ăn những thức ăn thừa. Đ
luôn miệng nhiếc móc và đuổi mẹ về. Thậm chí còn nguyền rủa bà chết đi cho
rảnh. Bà T thấy con vì buôn bán có tiền nên không kính trọng mẹ nữa nhưng bà
vẫn chịu đựng vì bà chỉ có mình Đ là con. Một hôm, do sơ ý, bà T làm vỡ chiếc
phích đựng nước liền bị Đ quát tháo, chửi mắng thậm tệ. Vì quá uất ức với con
trai, nên đêm hôm đó bà T đã uống thuốc tự tử.
- Làm nhục nạn nhân
Người
phạm tội đã có hành vi làm tổn thương đến nhân phẩm danh dự người lệ thuộc mình
bằng lời nói hoặc hành động như: xỉ vả trước đám đông, tung tin thất thiệt để
người khác tưởng thất là nạn nhân xấu xa. Ví dụ: Chị H là con dâu ông M, chồng
chị H là bộ đội. Ông M nghe dư luận chị H có quan hệ bất chính với anh T, ông M
tra khảo chị H, nhưng chị H không nhận có quan hệ với anh T, nên ông M đã lột
hết quần áo của chị H, cạo dầu bôi vôi rồi đuổi ra ngoài đường. Chị H thấy bị
xỉ nhục, quá uất ức đã uống thuốc sâu tự tử.
2.
Về phía người bị hại phải thoả mãn những điều kiện sau:
- Người tự sát phải là người lệ
thuộc vào người phạm tội
Mối
quan hệ lệ thuộc giữa nạn nhân và người phạm tội là yếu tố bắt buộc để xác định
hành vi của một người có phạm tội bức tử hay không. Người bị lệ thuộc phải là
người dựa vào người khác trong cuộc sống về các mặt vật chất và tinh thần như:
lệ thuộc về kinh tế; bị ràng buộc bởi quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi
dưỡng, quan hệ công tác, thầy trò hoặc quan hệ tôn giáo...
- Nạn nhân phải là người tự tước
đoạt tính mạng của mình
Nạn
nhân, bằng nhiều phương pháp khác nhau, đã tự mình thực hiện việc tước đoạt
tính mạng của chính mình như: thắt cổ, uống thuốc độc, nhảy xuống sông, đâm vào
bụng, bắn vào đầu v.v... Nếu nạn nhân tuy muốn chết nhưng lại không thực hiện
hành vi tự tước đoạt tính mạng của mình mà nhờ người khác giúp thì không phải
là tự sát và người có hành vi ngược đãi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về tội bức tử.
- Nguyên nhân dẫn đến việc nạn
nhân tự sát là do hành vi của người phạm tội
Vì
bị đối xử tàn ác, thường xuyên bị ức hiếp ngược đãi hoặc bị làm nhục, nên nạn
nhân đã tự sát. Nếu vì lý do khác làm cho nạn nhân tự sát, thì người có hành vi
đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp... cũng không bị coi là phạm tội bức tử. Ví
dụ: Chị H mẹ chết sớm, bố lấy vợ khác, H phải ở với dì ghẻ từ lúc 3 tuổi. Trong
cuộc sống, H thường xuyên bị dì ghẻ ức hiếp, đối xử tàn ác và nhiều lần bị dì
ghẻ làm nhục trước bạn bè. Khi H 18 tuổi yêu một bạn trai hơn H một tuổi. Vì
nhẹ dạ nên H đã có thai với người yêu. Sau khi biết H có thai, người yêu của H
đã bỏ rơi. Do thất tình, H đã viết một lá thư tuyệt mệnh rồi uống thuốc tự tử.
Chỉ
cần nạn nhân có hành vi tự sát là tội phạm hoàn thành, còn việc nạn nhân chết
hay được cứu sống chỉ có ý nghĩa xem xét khi quyết định hình phạt. Tuy nhiên,
đối với trường hợp nạn nhân không bị chết, tuỳ thuộc vào từng trường hợp mà có
thể truy tố hoặc không truy tố người có hành vi bức tử.
B.
CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1.
Bức tử làm một người tự sát (
khoản 1 Điều 100)
Bức
tử làm một người tự sát là hành vi đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược
đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm cho người đó (một người) tự sát và
người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 100 Bộ luật
hình sự có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù, là tội phạm nghiêm trọng. So với khoản 1 Điều
105 Bộ luật hình sự năm 1985 là tội nặng hơn, vì mức thấp nhất của khung hình
phạt theo khoản 1 Điều 100 cao hơn mức thấp nhất của khung hình phạt theo khoản
1 Điều 105 Bộ luật hình sự năm 1985. Do đó, những hành vi bức tử được thực hiện
trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000, nhưng sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị xử lý thì
không áp dụng khoản 1 Điều 100 đối với người phạm tội mà chỉ áp dụng khoản 1
Điều 105 Bộ luật hình sự năm 1985 để xét xử đối với họ.
2.
Bức tử làm nhiều người tự sát (
khoản 2 Điều 100)
Bức
tử làm nhiều người tự sát là hành vi đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược
đãi hoặc làm nhục nhiều người lệ thuộc mình làm cho những người đó (từ hai
người trở lên) tự sát và người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
khoản 2 Điều 100 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ năm năm đến mười hai năm
tù, là tội phạm rất nghiêm trọng.
Đây
là cấu thành mới so với Bộ luật hình sự năm 1985, do yêu cầu của thực tiễn xét
xử hơn 10 năm thi hành Bộ luật hình sự, nên nhà làm luật đã xây dựng một cấu
thành tăng nặng đối với tội bức tử. Ví dụ: Trong thời gian qua, một số nhà
hàng, khách sạn ở một số thành phố, thị xã xuất hiện nhưng ổ nhóm "bảo
kê", bọn chúng khống chế, ép buộc các nữ tiếp viên phải nộp tiền cho
chúng, buộc phải bán dâm theo sự sai khiến của chúng, nếu không nộp tiền, không
'tiếp khách" theo yêu cầu của chúng thì chúng đánh đập thậm tệ hoặc làm
nhục, nhiều chị em không chịu nổi sự hành hạ đó đã tự sát.
Bức
tử là hành vi phạm tội nghiêm trọng và trong nhiều trường hợp còn là hành vi
phạm tội rất nghiêm trọng, nó vừa xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ của con
người vừa xâm phạm đến danh dự nhân phẩm của nạn nhân. Do đó khi xử lý hành vi
bức tử phải nhằm đạt được yêu cầu phòng, chống những hành vi côn đồ, hung hãn,
độc đoán, gia trưởng; những tư tưởng phong kiến, tư sản. Đồng thời phải giáo
dục mọi người chống những tàn dư của chế độ cũ, chống lại những biểu hiện tiêu
cực, thấy bất công không giám đấu tranh, tố giác tội phạm mà chọn cái chết để
giải thoát sự bất công là một hành động tiêu cực.
9.
TỘI XÚI GIỤC HOẶC GIÚP NGƯỜI KHÁC TỰ SÁT ( ĐIỀU 101)
Xúi
giục người khác tự sát là hành vi của một người đã có những lời lẽ kích động,
dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của họ.
Giúp
người khác tự sát là hành vi của một người tạo điều kiện vật chất hoặc tinh
thần cho người khác tự tước đoạt tính mạng của họ.
Đây
là điều luật quy định hai hành vi phạm tội. Nếu người phạm tội có cả hai hành
vi xúi giục và giúp người khác tự sát thì tội danh mà họ bị truy cứu là tội
"xúi giục và giúp người khác tự sát" chứ không có từ "hoặc"
và nếu người phạm tội chỉ có hành vi xúi giục thì định tội là "xúi giục
người khác tự sát", nếu chỉ có hành vi giúp thì định tội là "Giúp
người khác tự sát".
A.
CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1.
Hành vi xúi giục người khác tự sát
Hành
vi xúi dục người khác tự sát bao gồm:
- Kích động người tự sát.
Kích
động người khác tự sát là có những lời lẽ nhằm thúc đẩy bằng cách tác động tâm
lý làm cho người bị kích động tự ái tới mức cao độ nên đã tự sát. Nếu không có
những lời lẽ kích động đó thì nạn nhân dù có chán đời, có những uẩn khúc trong cuộc sống cũng
chưa tới mức tự sát. Ví dụ: Chị Hoàng Thị D đang chán đời , vì bị chồng ruồng
bỏ, hắt hủi muốn ly dị. Trần Văn K là một thanh niên càn quấy, rượu chè, bị
chồng chị D mua chuộc nhờ K tìm cách xúi giục làm cho chị D tự ái mà tự tử. T
nhận lời đến gặp chị D và nói: "Em mà như chị thì em chẳng sống làm gì cho
khổ... chồng con gì mà tệ bạc... ngày nào em cũng thấy anh ấy đi chơi với cô X
cùng cơ quan, nhiều lần bắt gặp hai người trong công viên v.v..." Sẵn chán
đời, lại nghe K nói như vậy chị D đã uống thuốc tự tử.
- Dụ dỗ người khác tự sát.
Là
người phạm tội đã có những lời lẽ khuyên bảo một cách khéo léo để làm cho người
khác tự sát theo ý muốn của mình. Ví dụ: Tạ Thị L và Bùi Văn H yêu nhau, nhưng
H còn yêu cả chị M và muons cắt đứt với L nên H nói dối với L là gia đình H
không đồng ý cho H lấy L làm vợ. Vì quá yêu H nên L bàn với H trốn khỏi địa
phương, H lấy lí do là không thể đi được, nhưng để trọn tình với L, H bàn với L
là cả hai cùng nhảy xuống sông tự tử để cả hai đứa mãi mãi được ở bên nhau. Vì
quá yêu H nên L đồng ý, cả hai đều nhất trí khi nào H hô đến ba thì nhảy xuống
sông. Khi H hô đến ba thì chỉ có L nhảy xuống sông còn H thì quay về báo cho
mọi người biết là L tự tử.
Những
lời nói kích động, dụ dỗ của người phạm tội là nhằm thúc đẩy nạn nhân đến chỗ
tự sát. Vì vậy, ý thức của người phạm tội là mong muốn làm sao cho nạn nhân tự
sát. Nếu chỉ vì một vài lời nói có tính chất kích động mà nạn nhân sẵn có ý
muốn tự sát, còn người có lời nói đó hoàn toàn không mong muốn cho nạn nhân tự
sát thì cũng không phạm tội xúi giục người khác tự sát. Ví dụ: Chị B và chị C
cùng làm việc ở một cơ quan. Có lần chị C tâm sự với chị B về việc chồng mình
đi ngoại tình, về nhà còn đánh đập chửi mắng vợ con. Nghe chuyện, chị B cũng
bực tức và nói: "Tôi mà như thế thì chết quách cho đỡ khổ". Mấy
ngày sau, chị C thắt cổ tự tử.
2.
Hành vi giúp người khác tự sát
Hành
vi giúp người khác tự sát là hành vi tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất để
người khác tự sát, như: tìm kiếm, cung cấp phương tiện để nạn nhân tự sát hoặc
hứa hẹn trước với nạn nhân giữ kín việc tự sát của họ. Ví dụ: A biết B có ý
định tự sát và A cũng muốn B tự sát nhưng B chưa biết tự sát bằng cách nào, B
nhờ A đi mua hộ thuốc ngủ và không được nói là mua hộ B, A đã nhận lời và mua
cho B 20 viên thuốc ngủ và B đã uống một lúc hết 20 viên thuốc ngủ nên đã bị
chết.
Người
phạm tội phải nhận thức được hành vi của mình là tạo điều kiện cho nạn nhân tự
sát thì mới là phạm tội giúp người khác tự sát. Nếu họ không biết và không thể
biết hành động của mình tạo điều kiện cho nạn nhân tự sát thì không phạm tội
này. Ví dụ: Chị K bị chồng ruồng bỏ, nên chán đời muốn tự tử. Chị K đến nhờ N
mua hộ 10 lít xăng, N hỏi chị mua xăng làm gì, chị K trả lời về đổi lấy dầu
chạy máy xát gạo vì nhà chị K có máy xát gạo, N tưởng thật đã mua cho chị K 10
lít xăng. Tối hôm đó, trong lúc gia đình đi vắng, chị K đã đổ xăng vào nhà và
đổ vào quần aó rồi bật lửa tự thiêu.
3.
Người bị hại phải tự mình thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng
Cũng
tương tự như trường hợp bức tử, nạn nhân bằng nhiều phương pháp khác nhau, đã
tự mình thực hiện việc tước đoạt tính mạng của chính mình như: thắt cổ, uống
thuốc độc, nhảy xuống sông, đâm vào bụng, bắn vào đầu v.v... Nếu nạn nhân tuy
muốn chết nhưng lại không thực hiện hành vi tự tước đoạt tính mạng của mình mà
nhờ người khác giúp thì không phải là giúp người khác tự sát mà người có hành
vi tước đoạt tính mạng của nạn nhân phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
giết người theo Điều 93 Bộ luật hình sự. Ví dụ: A muốn tự sát bằng súng K54,
nhưng không dám bắn nên đã nhờ B bắn vào đầu mình khi B đang ngủ say.
Cả
hai trường hợp xúi giục và giúp người khác tự sát, chỉ cần người bị xúi giục
hoặc được giúp đỡ có hành vi tự sát là tội phạm đã hoàn thành, còn nạn nhân có
chết hay không, điều đó chỉ có ý nghĩa khi xem xét đến việc quyết định hình
phạt hoặc xem xét đến việc có truy tố người phạm tội này hay không chứ không có
ý nghĩa định tội. Tội phạm này cũng không có giai đoạn phạm tội chưa đạt, bởi
lẽ dù có bị xúi giục hoặc được giúp đỡ đến mức nào đi nữa mà người bị xúi giục,
người được giúp đữ không tự sát thì vẫn chưa phải là tội phạm.
Cả
hai trường hợp phạm tội trên, người phạm tội thực hiện hành vi của mình đều do
cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình nguy hiểm đến tính mạng của nạn
nhân, thấy trước được hành vi xúi giục hoặc giúp người khác tự sát nhất định
hoặc có thể dẫn đến nạn nhân tự sát và mong muốn hoặc bỏ mặc cho việc tự sát
xảy ra. Nếu nạn nhân bị chết thì cái chết của nạn nhân chỉ là hậu quả gián tiếp
do hành vi xúi giục hoặc giúp đỡ nạn nhân của người phạm tội chưa không phải là
hậu quả trực tiếp. Vì vậy, không nên xét lỗi của người phạm tội đối với cái chết
của nạn nhân.
C.
CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1.
Xúi dục hoặc giúp một người tự sát ( khoản 1 Điều 101)
Xúi
dục hoặc giúp một người tự sát là có những lời lẽ kích động, dụ dỗ, thúc đẩy
hoặc tạo điều kiện vật chất, tinh thần cho một người tự tước đoạt tính mạng của
họ và người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 101
Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ từ sáu tháng đến ba năm tù. So với Điều
106 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này, thì khoản 1 Điều 101 là tội
phạm nhẹ hơn. Nếu hành vi phạm tội được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000
mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 1 Điều
101 đối với người phạm tội.
Đây
là loại tội phạm ít nghiêm trọng, nên đường lối xử lý nói chung chỉ truy tố xét
xử những trường hợp nạn nhân bị chết hoặc bị thương tật nặng, còn đối với các
trường hợp nạn nhân tuy đã tự sát nhưng không bị chết hoặc chỉ bị thương tật
nhẹ, thì nói chung không truy tố xét xử mà chủ yếu giáo dục hoặc xử lý bằng
biện pháp khác.
2.
Xúi dục hoặc giúp nhiều người tự sát ( khoản 2 Điều 101)
Xúi
dục hoặc giúp nhiều người tự sát là có những lời lẽ kích động, dụ dỗ, thúc đẩy
hoặc tạo điều kiện vật chất, tinh thần cho từ hai người trở lên tự tước đoạt
tính mạng của họ và người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
khoản 2 Điều 101 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ từ hai năm đến bảy năm
tù.
Nếu
xúi dục một người tự sát và giúp một người tự sát thì người phạm tội vẫn bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 101 Bộ luật hình sự nhưng tội
danh của người phạm tội là "xúi dục và giúp người khác tự sát" (thay
liên từ "hoặc' bằng liên từ "và").
Đây
là tội phạm nghiêm trọng và cũng tương tự như đối với tội bức tử, do yêu cầu
thực tiễn xét xử nên nhà làm luật quy định một cấu thành tăng nặng đối với tội
này. Do đó chỉ hành vi phạm tội được thực hiện từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới áp
dụng khoản 2 Điều 101 Bộ luật hình sự đối với người phạm tội
7.
TỘI CỐ Ý KHÔNG GIÚP NGƯỜI ĐANG Ở TRONG TÌNH TẠNG NGUY HIỂM ĐẾN TÍNH MẠNG ( ĐIỀU 102)
Cố
ý không cứu người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là hành vi
thấy người đang ở trong tình trạng sắp chết, tuy có điều kiện cứu mà không cứu
dẫn đến người đó bị chết.
A.
CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1.
Về phía người phạm tội
-
Người phạm tội có điều kiện mà không cứu giúp.
Một
người khi thấy người khác ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, có điều
kiện cứu được người đó khỏi chết mà không cứu thì bị coi là có tội. Ví dụ:
Nguyễn Văn S làm nghề đánh cá, trong lúc đang ngồi trên thuyền thả lưới thì
thấy một người sắp chết đuối, nhưng vì sợ "điềm gở" nên không cứu,
đẫn đến người này bị chết.
Điều
kiện để cứu được người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là khả
năng thực tế có thể cứu được người sắp chết. Khả năng này có thể do bẩm sinh,
do rèn luyện, do học tập hoặc do tính chất nghề nghiệp mà có.
Khi
xét một trường hợp cụ thể lại phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra tình
trạng nguy hiểm đến tính mạng của người bị nạn, chứ không chỉ căn cứ vào khả
năng sẵn có của người cứu giúp. Ví dụ: một bác sĩ phẫu thuật, ngày chủ nhật vào
rừng săn bắn, gặp một người bị đau ruột thừa cấp tính, nếu không được mổ ngay
thì chết. Vì không có phương tiện (bộ đồ phẫu thuật), khu rừng lại xa nơi dân
cư, ít người qua lại. Người bác sĩ này đã cõng bệnh nhân ra khỏi khu rừng,
nhưng vì không kịp mổ nên bệnh nhân đã chết. Do đó, khả năng sẵn có của một
người chỉ là tiền đề (cơ sở) tạo điều kiện để có thể cứu được người bị nguy
hiểm đến tính mạng, còn thực tế có cứu được hay không lại phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khách quan khác. Khả năng của con người chỉ phát huy được khi nó có
những điều kiện cần thiết. Ngược lại, điều kiện có nhưng người ở trong điều
kiện lại không có khả năng mà không cứu được người đang ở trong tình trạng nguy
hiểm đến tính mạng đẫn đến người này bị chết thì cũng không coi là phạm tội. Ví
dụ: Một chị hộ lý được phân công mang bộ đồ phẫu thuật từ bệnh viện đến trạm
phẫu thuật tiền phương để cấp cứu cho thương binh. Trên đường đi gặp một phụ nữ
đau đẻ cần phải mổ để cứu cả con lẫn mẹ, nhưng vì chỉ là hộ lý, lại không có
phương tiện chở người sản phụ đến trạm phẫu thuật, người hộ lý này đã làm mọi
việc để cố cứu sản phụ nhưng không được mổ kịp thời nên sản phụ đã bị chết.
- Người phạm tội phải là người
không có hành động nào nhằm cứu người bị hại thì mới coi là phạm tội.
Không
hành động là một biểu hiện tiêu cực, lẽ ra họ phải có nghĩa vụ làm mọi việc để
loại trừ sự nguy hiểm cho xã hội nhưng lại không làm nên dẫn đến hậu quả. Nếu
họ đã có hành động nhưng vẫn không cứu được người đang ở trong tình trạng nguy
hiểm đến tính mạng thì cũng không coi là phạm tội. Ví dụ: Một người thấy một
người sắp chết đuối đã bơi ra giữa dòng sông để cứu nhưng bơi gần tới nơi thì
nạn nhân đã chìm, bị nước cuốn đi, người này đã lặn xuống mò tìm kiếm nhưng vẫn
không thấy. Tuy nhiên, nếu đang hành động, không có một trở ngại nào ngăn cản
mà tự ý dừng lại mặc dù vẫn còn điều kiện cứu mà không cứu để người bị nạn chết
thì vẫn bị coi là phạm tội. Ví dụ: Một người làm nghề đánh cá thấy một người
sắp chết đuối định chèo thuyền đến cứu vớt, nhưng người vợ lại nói: "cứu
người chết đuối làm ăn chẳng ra gì". Vì nghe lời vợ, nên đã không cứu để
người bị nạn chết.
-
Lỗi của người phạm tội phải là do cố ý.
Người
phạm tội biết rõ người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng nếu
không cứu được thì sẽ chết và biết rõ mình có điều kiện cứu mà cố tình không
cứu. Nếu còn nhận thức không rõ ràng tình trạng của nạn nhân hoặc khả năng của
mình thì không coi là phạm tội. Ví dụ: Một bác sĩ vì trình độ non kém không xác
định được bệnh nhân đau ruột thừa cấp tính nên không mổ do đó bệnh nhân bị
chết.
2.
Về phía nạn nhân
- Nạn nhân phải thực sự đang ở
trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.
Người
đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là trường hợp họ sắp bị chết,
nhưng nếu được cứu thì sẽ không bị chết như: sắp chết, bị ngộ độc, bị thương
nặng ra nhiều máu chưa được băng bó, mắc bệnh hiểm nghèo v.v... Nhưng nếu nạn
nhân chưa ở trong tình trạng trên có người biết nhưng không cứu giúp, sau đó bị
chết vì lý do khác thì người không cứu trước đó không coi là phạm tội. Ví dụ:
Anh Nguyễn Văn Q bị tai nạn giao thông gãy chân, lái xe gây tai nạn bỏ trốn,
anh Q bò ra đường vẫy xe nhờ đưa vào bệnh viện, người lái xe thấy anh Q chỉ bị
thương vào chân, bệnh viện lại ở cách đó khá xa, xe lại không đi về hướng đó,
nên sau khi băng bó cẩn thận cho anh Q, người lái xe bảo anh Q cứ ngồi chờ khi
nào có xe ngược chiều thì xin đi nhờ, anh Q đồng ý. Vì bị đau, anh Q nằm thiếp
đi trên mặt đường, trời tối lại ở đoạn đường vòng nên sau đó bị một xe tải cán
chết.
- Người bị hại phải bị chết thì
hành vi không cứu giúp mới cấu thành tội phạm
Người
không được cứu phải chết thì người không cứu mới là phạm tội, nếu trước đó có
người cố tình không cứu, nhưng sau đó lại được người khác cứu nên không chết
thì người có hành vi cố tình không cứu trước đó chưa phải là hành vi phạm tội
này. Ví dụ: Chị M sắp chết đuối gặp thuyền đánh cá của H, vì mê tín nên H không
cứu, nhưng ngay sau đó chị M được anh T cứu nên thoát chết.
B.
CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1.
Người phạm tội là người đã vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm đến tính mạng cho
nạn nhân (
điểm a khoản 2 Điều 102)
Thông
thường, nạn nhân lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là do chính họ hay
người khác hoặc nhưng sự kiện khách quan gây ra. Tuy nhiên, cũng có trường hợp
lại do chính người phạm tội gây ra.
Vô
ý gây ra tình trạng nguy hiểm đến tính mạng người khác là do cẩu thả mà không
thấy trước khả năng gây ra tình trạng nguy hiểm đến tính mạng người khác mặc dù
phải thấy trước và có thể thấy trước. Hoặc thấy hành vi của mình có thể gây ra
tình trạng nguy hiểm đến tính mạng người khác, nhưng cho rằng tình trạng đó
không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
Đây
là người phạm tội vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của người khác
chứ không phải vô ý làm chết người khác. Do vô ý mà người phạm tội đã đưa người khác vào trong
tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, nhưng sau đó lại cố ý không cứu mặc dù có
điều kiện để cứu, nhưng phải coi trường hợp phạm tội này là nguy hiểm hơn và bị
phạt nặng hơn trường hợp vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm đến tính mạng cho nạn
nhân.
2.
Người phạm tội là người mà theo pháp luật phải có nghĩa vụ cứu giúp ( điểm b khoản 2 Điều 102)
Người
mà theo pháp luật phải có nghĩa vụ cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy
hiểm đến tính mạng là theo các ngành luật khác như: Luật hành chính, Luật lao
động, Luật giao thông, Luật dân sự v.v... chứ không phải Luật hình sự. Bởi vì
chính điều luật này (Điều 107 Bộ luật hình sự) đã quy định nghĩa vụ của mọi
người khi thấy người khác ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng thì phải
cứu họ.
Người
mà theo pháp luật phải có nghĩa vụ cứu giúp người khác là người có trách nhiện
cao hơn và họ cũng được trang bị nhưng phương tiện có khả năng cứu người bị tai
nạn tốt hơn. Ví dụ: Một lái xe qua nơi xảy ra tai nạn, có người bị thương nhưng
không chở người bị thương đến bệnh viện cấp cứu dẫn đến người bị thương chết,
trong khi đó luật giao thông quy định lái xe gặp trường hợp như vậy phải chở
người bị thương đến bệnh viện cấp cứu.
3.
Người phạm tội là người mà theo nghề nghiệp có nghĩa vụ phải cứu giúp ( điểm b khoản 2 Điều 102)
Người
mà theo nghề nghiệp phải có nghĩa vụ cứu giúp là người do tính chất nghề nghiệp
liên quan trực tiếp đến tính mạng của người khác như bác sĩ đối với bệnh nhân,
thuỷ thủ đối với người sắp chết đuối v.v...
C.
ĐƯỜNG LỐI XỬ LÝ ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI
Các
trường hợp phạm tội cụ thể trên đây, người phạm tội phải bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 102 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ một
năm đến năm năm tù. Luật hình sự coi các trườn hợp phạm tội này là tình tiết
định khung hình phạt nặng hơn trường hợp không thuộc trường hợp này.
Người
phạm tội không thuộc ba trường hợp trên thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo khoản 1 Điều 102 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ cảnh cáo, cải tạo
không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm.
Khi
xử lý loại tội này, chủ yếu nhằm giáo dục cho mọi người có ý thức cứu giúp
người khác khi họ đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Xét về mặt
đạo đức, người có điều kiện mà không cứu giúp người bị nạn sẽ bị dư luận xã hội
lên án, còn người quên mình giúp người bị nạn là tấm gương để mọi người noi
theo.
Khi
xét xử Toà án lấy giáo dục là chủ yếu, ngay trong trường hợp phải phạt tù cũng
cần giải thích để người phạm tội thấy rõ tội lỗi của mình, đồng thời thông qua
phiên toà giáo dục mọi công dân đề cao ý thức pháp luật, có trách nhiệm đối với
tính mạng của con người, lên án nhưng hành vi vô trách nhiệm đối với tính mạng
của người khác, biểu dương nhưng hành động dũng cảm xả thân vì người khác, phê
phán lối sóng ích kỷ, tư tưởng lạc hậu trái với đạo đức.
11.
TỘI ĐE DOẠ GIẾT NGƯỜI
( ĐIỀU 103)
Đe
doạ giết người là hành vi của một người bằng lời nói, hành động hoặc những thủ
đoạn làm cho người khác lo sợ rằng mình sẽ bị giết.
A.
CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1.
Về phía người phạm tội
Người
phạm tội phải có hành vi làm cho người bị đe doạ lo sợ. Hành vi này chỉ có thể
là hành động như bằng lời nói, cử chỉ, cách nhìn, nhưng không phải để thực hiện
việc giết người mà chỉ nhằm làm cho người bị đe doạ tưởng thật là mình có thể
bị giết như: mài da, lấy súng lên đạn, viết thư, nhắn tin v.v...
Hành
vi đe doạ của người phạm tội phải làm cho người bị đe doạ thực sự tin rằng mình
sẽ bị giết, tức là có căn cứ để xác định hành vi đe dọa đó sẽ được thực hiện;
căn cứ này phát sinh từ phía người bị đe doạ không phải là căn cứ khách quan,
đây là dấu hiệu đặc trưng của tội này, song lại là dấu hiệu khó xác định.
Nếu
người phạm tội sau lời đe doạ lại thực hiện một số hành vi như tìm kiếm phương
tiện giết người hoặc chuẩn bị phương tiện giết người thì phải xác định những
hành động đó chỉ nhằm làm cho người bị đe doạ tưởng bị giết thật chứ không nhằm
tước đoạt tính mạng người bị đe doạ. Chính vì mục đích đó, nên hành vi có vẻ
chuẩn bị này, người phạm tội cố ý để cho người bị đe doạ nhìn thấy hoặc người
khác nhìn thấy mà người phạm tội biết rằng người này sẽ nói lại cho người bị đe
doạ biết, còn hành vi chuẩn bị nhằm tước đoạt tính mạng của người khác, người
phạm tội phải thực hiện một cách lén lút không cho ai biết, vì nếu để lộ sẽ
không thực hiện được ý định giết người. Đây cũng là dấu hiệu cơ bản để phân
biệt giữa tội đe doạ giết người với tội giết người ở giai đoạn chuẩn bị.
Nếu
người phạm tội có hành vi đe doạ, nhưng hành vi đó chỉ là phương pháp để thực
hiện một tội phạm khác, nhằm mục đích khác thì không phải là phạm tội đe doạ
giết người như: hành vi đe doạ dùng bạo lực trong các tội xâm phạm an ninh quốc
gia; các tội xâm phạm sở hữu; các tội xâm phạm nhân phẩm của con người v.v...
Chủ
thể của tội đe dọa giết người nhất thiét phải đủ 16 tuổi trở lên, nếu dưới 16
tuổi thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì khoản 1 Điều
103 là tội ít nghiêm trọng và khoản 2 Điều 103 là tội nghiêm trọng mà người từ
đủ 14 tuổi đén dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm
rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng (khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự ).
2.
Về phía người bị hại
Người
bị hại phải thực sự lo lắng và tin rằng hành vi đe doạ của người phạm tội sẽ
được thực hiện. Thật khó có thể hình dung được một hành vi không bao giờ được
thực hiện lại làm cho người khác tin rằng nó sẽ xảy ra. Rõ ràng phải có sự lầm
tưởng của người bị hại và những người khác về sự thật của hành vi. Điều này phụ
thuộc vào hoạt động tư duy của mỗi người. Chính thái độ tâm lý của người bị đe
doạ là dấu hiệu buộc tội bị cáo. Việc xác định sự sợ hãi của người bị đe doạ
phải căn cứ thái độ, các hoạt động của họ sau khi nhận được sự đe doạ, thời
gian, hoàn cảnh, địa điểm, mối quan hệ giữa bị cáo và người bị hại. Nếu trong
hoàn cảnh đó, nhiều người cho rằng sự đe doạ đó sẽ được thực hiện thì sự lo sợ
của người bị hại là có căn cứ.
Nếu
người bị đe doạ không lo sợ bị giết mà lại lo sợ về những hậu quả khác do bị
cáo có thể gây nên cho mình, thì dù bị cáo có hành vi đe doạ giết người cũng
không phạm tội này. Ví dụ: B nợ tiền của C, hết hạn B chưa trả được. C đe doạ:
"Nếu một tuần nữa không trả tao giết mày!". B biết C không giám giết
mình, nhưng lại sợ C đến bắt nợ hoặc đón đường đánh mình.
Người
bị hại có thể sợ người có hành vi đe doạ giết, nhưng cũng có trường hợp không
sợ bị cáo giết mà lại sợ người khác giết mình, thì người có hành vi đe doạ vẫn
phạm tội này. Ví dụ: M và H cùng yêu anh T. M đe doạ H: "Nếu mày không
buông anh T ra, tao sẽ cho mày chết!". H biết M có quan hệ với bọn lưu
manh, sợ M thuê bọn đó giết mình nên phải trốn khỏi địa phương không dám về nhà
nữa.
Người
bị đe doạ có thể sợ mình bị giết và cũng có thể sợ người thân của mình bị giết
miễn là họ tin rằng hành vi đe doạ của bị cáo sẽ được thực hiện. Ví dụ: V cho L
mượn 2 lượng vàng để làm vốn đi buôn, nhưng vì thua lỗ nên L không trả nợ cho V
như đã hứa. V đe doạ: "Nếu không trả V sẽ bắt đứa con 3 tuổi của L nhốt
một chỗ cho chết đói". L lo sợ phải đưa con đi trốn.
B.
CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1.
Đe dọa giết một người và không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 103 ( khoản 1 Điều 103)
Đe
dọa giết một người là trường hợp chỉ có một người bị đe dọa và người phạm tội
bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 103 Bộ luật hình sự có khung
hình phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến
hai năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. So với Điều 108 Bộ luật hình sự năm 1985
thì khoản 1 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hình phạt nặng hơn, vì
mức cao nhất của loaị hình phạt cải tạo không giam giữ là hoaij (Điều 108 Bộ
luật hình sự năm 1985 chỉ có một năm), do đó chỉ người nào thực hiện hành vi đe
dọa giết người kể từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị áp dụng khoản 1 Điều 103 Bộ
luật hình sự năm 1999. Khi xử lý trường hợp phạm tội này, chủ yếu lấy giáo dục
là chính, việc truy tố xét xử chỉ nên đối với trường hợp người bị đe doạ sợ tới
mức ảnh hưởng đến sức khoẻ, công tác, lao động và học tập gây ảnh hưởng đến
trật tự an toàn xã hội, người có hành vi đe doạ có nhân thân xấu.
2.
Đe dọa giết nhiều người (
điểm a khoản 2 Điều 103)
Đe
dọa giết nhiều người là trường hợp có từ hai người bị dọa giết và cả hai người
đều tin là mình bị giết. Đây là cấu thành tăng nặng của tội đe dọa giết người
mới được quy định mà Bộ luật hình sự năm 1985 chưa có. Việc nhà làm luật quy
định các trường hợp phạm tội đe dọa giết người tại khoản 2 Điều 103 Bộ luật
hình sự năm 1999 cũng xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn xét xử, vì trên thực
tế đã có trường hợp người phạm tội đe dọa giết cả nhà người khác và cả gia đình
người bị đe dọa phải bỏ nhà đến sống ở nơi mà họ cho rằng người đe dọa không
biết.
3.
Đe dọa giết người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân( điểm b khoản 2 Điều 103)
Người
bị đe dọa trong trường hợp này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm d
khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự về tội giết người.8 Tuy nhiên, trong
trường hợp này người thi hành công vụ chỉ bị đe dọa sẽ bị giết và họ cũng tin
rằng mình bị giết. Đây cũng là cấu thành tăng nặng mới được quy định trong Điều
103 Bộ luật hình sự năm 1999, nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình tội phạm trong
thời gian vừa qua, nếu chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đôí với người phạm tội
theo khoản 1 Điều 103 như những trường hợp đe dọa giết người khác thì không thể
hiện được tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi đe dọa giết người của bị
cáo. Mặt khác, không động viên được những người làm nhiệm vụ chính đáng lại bị
đe dọa.
4.
Đe dọa giết trẻ em (
điểm c khoản 2 Điều 103)
Đe
dọa giết trẻ em là trường hợp người bị đe dọa chưa đủ 16 tuổi. Cũng như trường
hợp phạm tội đối với trẻ em khác, đe dọa giết trẻ em là trường hợp phạm tội
nghiêm trọng hơn đối với việc đe dọa giết người mà nạn nhân không phải là trẻ
em. Trẻ em bị dọa giết bao giờ cũng sợ hơn, ảnh hưởng lớn hơn đến tinh thần,
sức khỏe, nhiều trường hợp vì quá sợ hãi, trẻ em phải bỏ nhà đi lang thang dẫn
đến những hậu quả nghiêm trọng khác. Vì vậy nhà làm luật quy định trường hợp đe
dọa giết trẻ em là cấu thành tăng nặng không chỉ phù hợp với tình hình phạm tội
xảy ra mà còn có tác dụng phòng và chống hành vi xâm phạm đến những quyền và
lợi ích chính đáng của trẻ em được Nhà nước và xã hội đặc biệt quan tâm, bảo
vệ. Tuy nhiên, chỉ những hành vi đe dọa giết trẻ em được thực hiện từ 0 giờ 00
ngày 1-7-2000 mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm c khoản 2 Điều 103
Bộ luật hình sự năm 1999.
5.
Đe dọa giết người để che giấu việc bị xử lý về một tội phạm khác (điểm d khoản 2 Điều 103)
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội giết người để che giấu
một tội phạm khác quy định tại điểm d khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự.9
Tuy nhiên, người phạm tội trong trường hợp này chỉ có hành vi đe dọa giết người
chứ không phải giết người, còn mục đích của hành vi đe dọa cũng là để che giấu
một tội phạm khác. Về mặt thời gian hành vi đe dọa giết người bao giờ cũng được
thực hiện sau hành vi phạm tội khác, tội phạm khác mà người phạm tội thực hiện
là tội phạm bất kỳ và chưa bị phát hiện, nếu tội phạm khác đã bị phát hiện rồi
mới có hành vi đe dọa thì không phải là trường hợp đe dọa giết người để che
giấu tội phạm khác. Đây cũng là cấu thành tăng nặng mới được quy định đối với
tội đe dọa giết người, nên chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội theo điểm d khoản 2 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1999 về những hành vi được
thực hiện từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000.
6.
Đe dọa giết người để trốn tránh việc xử lý về một tội phạm khác (điểm d khoản 2 Điều 103)
Tội
phạm khác trong trường hợp này là tội phạm bất kỳ, người phạm tội đã thực hiện
trước khi có hành vi đe dọa giết người, khác với trường hợp đẻ che giấu là tội
phạm khác đã bị phát hiện, nhưng vì để trốn tránh việc xử lý của cơ quan pháp
luật nên người phạm tội đã có hành vi đe dọa giết người. Người bị đe dọa trong
trường hợp này có thể là người dân thường. Ví dụ: Một tên cướp có vũ khí đang
bị đuổi bắt đã chạy vào nhà dân ven đường dùng súng khống chế bắt chủ nhà cho y
ẩn nấp nếu không y sẽ giết. Vì sợ bị giết thật nên chủ nhà đã mở cửa buồng cho
vào ẩn nấp, nhưng lực lượng truy bắt vẫn phát hiện và bắt được tên cướp. Khi có
nguy cơ bị bắt, mặc dù có súng trong tay nhưng tên cướp vẫn không thực hiện lời
đe dọa là giết chủ nhà. Nếu để trốn tránh việc bị xử lý về một tội phạm khác mà
đe dọa người thi hành công vụ thì áp dụng điểm b khoản 2 Điều 103 Bộ luật hình
sự mà không áp dụng điểm d khoản 2 Điều 103.
Các
trường hợp đe dọa giết nhiều người; đe dọa giết người thi hành công vụ hoặc vì
lý do công vụ của nạn nhân; đe dọa giết trẻ em; đe dọa giết người để che giấu
hoặc trốn tránh việc bị xử lý về mọt tội phạm khác, người phạm tội phải bị truy
cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 103 Bộ luật hình sự có khung hình
phạt từ hai năm đến bảy năm tù, là tội phạm nghiêm trọng.
12.
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHOẺ CỦA NGƯỜI KHÁC ( ĐIỀU 104 )
Cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác là hành vi của
một người cố ý làm cho người khác bị thương hoặc tổn hại đến sức khoẻ.
So
với Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999
về cơ bản đã được cấu tạo lại, lấy tỷ lệ thương tật làm căn cứ để xác định
trách nhiệm hình sự và xác định khung hình phạt. Ngoài ra, nhà làm luật còn quy
định một số trường hợp phạm tội mà thực tiễn xét xử, Toà án nhân dân tối cao đã
tổng kết hướng dẫn các Toà án áp dụng Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985. Các
trường hợp phạm tội này được làm dấu hiệu bổ sung cho dấu hiệu về tỷ lệ thương
tật, nếu như tỷ lệ thương tật của nạn nhân chưa tới mức để người phạm tội phải
bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà thuộc một trong các trường hợp này thì người
phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị áp dụng khung hình phạt nặng
hơn.
A.
CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1. Về phía người phạm tội
Người
phạm tội phải có hành vi tác động đến
thân thể của người khác làm cho người này bị thương, bị tổn hại đến sức khoẻ
như: đâm, chém, đấm đá, đốt cháy, đầu độc v.v... Hành vi này về hình thức cũng
giống hành vi của tội giết người, nhưng tính chất và mức độ nguy hiểm thấp hơn
nên nó chỉ làm cho nạn nhân bị thương hoặc bị tổn hại đến sức khoẻ chứ không
làm cho nạn nhân bị chết.
Hành vi của người phạm tội được thực hiện do
cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình nhất định hoặc có thể gây ra thương
tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của người khác; mong muốn hoặc có ý thức để mặc
cho hậu quả đó xảy ra. so với tội giết người, thì sự cố ý trong trường hợp gây
thương tích mức độ nguy hiểm có thấp hơn, vì người phạm tội chỉ mong muốn hoặc
để mặc cho nạn nhân bị thương, bị tổn hại đến sức khoẻ chứ không mong muốn nạn
nhân chết.
2.
Về phía nạn nhân
Nạn
nhân phải bị thương tích hoặc bị tổn thương đến sức khoẻ ở mức đáng kể. Nếu
thương tích không đáng kể thì chưa phải là tội phạm. So với Điều 109 Bộ luật
hình sự năm 1985, thì Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 lấy tỷ lệ thương tật
của nạn nhân làm căn cứ để xác định trách nhiệm hình sự và định khung hình phạt
đối với người phạm tội
Theo
quy định tại khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự, thì người bị thương tích hoặc bị
tổn hại đén sức khỏe phải có tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên thì người phạm tội
mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Căn cứ để xác định tỉ lệ thương tật là kết
luận của Hội đồng giám định y khoa, trong trường hợp ở nơi nào không tổ chức
được Hội đồng giám định y khoa thì căn cứ vào Bảng tiêu chuẩn thương tật 4 hạng
quy định tại Thông tư liên bộ 12/TTLB ngày 26-7-1995 của Bộ Y tế - Bộ lao động,
thương binh và xã hội.
B.
CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1.
Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người ( điểm a khoản 1 Điều 104)
Hung
khí nguy hiểm chính là phương tiện mà người phạm tội thực hiện để gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác, nhưng phương tiện đó mang
tính chất nguy hiểm như dao, các loại lê, các loại súng, lựu đạn, thuốc nổ,
Axit...
Hung
khí nguy hiểm là bản thân nó chứa đựng khả năng gây ra nguy hiểm đến tính mạng
sức khoẻ, nó hoàn toàn không phụ thuộc vào cách sử dụng của người phạm tội.
Thủ
đoạn gây nguy hại cho nhiều người như đốt cháy, đầu độc, bắn vào chỗ đông
người. Thủ đoạn là do người phạm tội thực hiện, do đó tính chất nguy hiểm phụ
thuộc vào hành vi phạm tội chứ không phụ thuộc vào phương tiện mà người phạm
tội sử dụng.
2.
Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân (
điểm b khoản 1 Điều 104)
Cố
tật là một tật trên cơ thể con người không bao giờ chữa khỏi. Cố tật nhẹ là tật
không chữa khỏi, nhưng tỷ lệ thương tích chỉ dưới 11%.
Bộ
luật hình sự năm 1999 chỉ quy định gây cố tật nhẹ, trong khi đó thực tiẽn xét
xử có nhiều trường hợp người bị hại bị cố tật nặng, thậm chí rất nặng như bị mù
cả hai mắt, cụt cả hai tay, hai chân, bị liệt toàn thân, bị bỏng nặng với diện
80% và độ 2-3... Các trường hợp quy định tại các khoản 2, khoản 3 và khoản 4
Điều 104 Bộ luật hình sự chỉ quy định tỷ lệ thương tật và nếu tỷ lệ thương tật
dưới mức quy định mà gây cố tật nhẹ thì người phạm tội vẫn bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo điều khoản tương ứng của Bộ luật hình sự. Cách quy định này
tuy thuận tiện cho việc áp dụng Điều 104 Bộ luật hình sự đối với hành vi cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, nhưng sẽ không
phù hợp với một số trường hợp thực tế xảy ra. Ví dụ: một người bị đánh mù một
mắt, phải khoét bỏ con mắt đó có tỷ lệ thương tật là 45%. Nếu chỉ căn cứ vào tỷ
lệ thương tật thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2
Điều 104, nhưng vì người bị hại bị cố tật nên người phạm tội phải bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự. Nhưng bị khoét bỏ
một con mắt thì không thể coi là cố tật nhẹ được.10
Để
tránh tình trạng đánh giá khác nhau về mức độ cố tật, điểm b khoản 1 Điều 104
chỉ nên quy định: "gây cố tật" mà không cần phải quy định "gây
cố tật nhẹ". Hy vọng rằng khi sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999,
vấn đề này sẽ được các nhà làm luật quan tâm hơn.
3.
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe nhiều lần đối với cùng một người
hoặc đối với nhiều người;
Gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe nhiều lần đối với cùng một người là
trường hợp một người hoặc nhiều người cùng cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của một người, nhưng hành vi gây thương tích đó được diễn ra
từ hai lần trở lên không kể khoảng cách thời gian là bao lâu. Ví dụ: A đấm
nhiều cải vào mồm của B bị chảy máu, nhưng tỷ lệ thương tật của B chỉ có 8%
nhưng A vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình
sự vì A gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của B nhièu lần.
Gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người là trường hợp có từ
hai người bị hại trở lên nhưng tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa tới 11%. Ví
dụ: A đánh B và C, trong đó tỷ lệ thương tật của B là 5%, của C là 4% nhưng A
vấn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự.
4.
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe đối với trẻ em, phụ nữ đang có
thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ
Đây
là trường hợp phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm
đau hoặc người không có khả năng tự vệ.11 Nhưng tội phạm mà
người phạm tội thực hiện ở đây là tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác.
Cần
phân biệt trường hợp phạm tội với trường hợp phạm tội "mà biết" quy định tại điểm b khoản
1 Điều 93 Bộ luật hình sự về trường hợp "giết phụ nữ mà biết là có
thai". Do đó, chỉ cần xác định người bị hại là trẻ em, là phụ nữ đang có
thai, là người già yếu, là người không có khả năng tự vệ mà tỷ lệ thương tật
của những người này dưới 11% là người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình
sự theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự rồi.
5.
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe đối với ông, bà, cha, mẹ, người
nuôi dưỡng, thầy cô giáo của mình
Trường
hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm đ
khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự về tội giết người, chỉ khác nhau ở chỗ trường
hợp phạm tội này người phạm tội chỉ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác mà người đó là ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy cô
giáo của mình mà tỷ lệ thương tật của người bị hại chưa đến 11%.
6.
Phạm tội có tổ chức
Trưng
hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm o
khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự về tội giết người, chỉ khác nhau ở chỗ trường
hợp phạm tội này những người phạm tội chỉ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật của người bị hại chưa đến 11%.
7.
Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở giáo dục
Cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong thời gian
bị tam giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục được
coi là trường hợp phạm tội nghiêm trọng hơn, vì họ đang bị áp dụng các biện
pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, hoặc đang bị quản lý chặt chẽ mà họ vẫn phạm
tội, nên người phạm tội tuy gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho
người bị hại với tỷ lệ thương tật chưa đến 11% vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình
sự.
Đang
bị tạm giữ là đang bị giữ trong nhà tạm giữ của cơ quan Công an hoặc cơ quan
điều tra hình sự quân đội theo lệnh tạm
giữ của người có thẩm quyền, trong thời gian đang bị tạm giữ lại cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong nhà tạm giữ.
Đang
bị tạm giam là đang bị giam trong nhà tạm giam của Công an hoặc cơ quan điều
tra hình sự quân đội theo lệnh tạm giam của người có thẩm quyền, trong thời
gian đang bị tạm giam lại cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong nhà tạm giam.
Đang
bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục là đang bị giáo dục trong các cơ sở
giáo dục của Bộ công an như: Trường giáo
dưỡng, các Trung tâm cải tạo do Bộ công an quản lý...
Không
coi là phạm tội trong thời gian bị tam giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở giáo dục, nếu như người đang bị tam giữ, tạm giam hoặc đang
bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đã bỏ trốn khỏi nhà tạm giữ, nhà
tạm giam hoặc cơ sở giáo dục.
8.
Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê
Tường
hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp thuê giết người hoặc giết người
thuê quy định tại điểm m khoản 1 Điều 93, chỉ khác nhau ở chỗ người phạm tội
trong trường hợp này chỉ thuê người khác gây thương tích hoặc được người khác
thuê gây thương tích. Người thuê và người được thuê gây thương tích cho người
khác đều được coi là nghiêm trọng hơn trường hợp gây thương tích bình thường,
nên người bị hại chỉ bị thương tích hoặc tổn hại đến sức khỏe dưới 11% thì
người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật
hình sự.
9.
Phạm tội có tính chất côn đồ hoặc thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm
Cả
hai trường hợp phạm tội này, các dấu hiệu đều tương tự với trường hợp phạm tội
giết người có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm n và
điểm p khoản 1 điều 93 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ, hai trường hợp phạm tội
này nạn nhân chỉ bị thương hoặc bị tổn hại đến sức khoẻ và người phạm tội cũng
chỉ mong muốn như vậy. Nếu nạn nhân chết là ngoài sự mong muons của người phạm
tội.
10.
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe để cản trở người thi hành công vụ
hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
a. Để cản trở người thi hành công vụ.
Đây
là trường hợp tương tự với trường hợp giết người đang thi hành công vụ quy định
tại điểm d khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân trong
trường hợp này chỉ bị thương hoặc bị tổn hại đến sức khoẻ chứ không bị chết và
người phạm tội cũng chỉ mong muốn hoặc bỏ mặc cho nạn nhân bị thương chứ không
không mong muốn hoặc bỏ mặc cho nạn nhân chết. Tuy nhiên, trong trường hợp phạm
tội này người phạm tội gây thương tích cho nạn nhân là để cản trở việc thi hành
công vụ của họ, còn ở tội giết người người phạm tội không nhất thiết cản trở
việc thi hành công vụ của nạn nhân mà có thể vì động cơ khác. Các dấu hiệu khác
của trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội giết người
đang thi hành công vụ quy địng tại điểm d khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự (xem
Giết người đang thi hành công vụ).
b. Vì lý do công vụ của nạn nhân
Trường
hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự với trường hợp giết người vì lý do công vụ
của nạn nhân quy định tại điểm d khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau
ở chỗ trường hợp phạm tội này nạn nhân chỉ bị thương hoặc bị tổn hại đến sức
khoẻ chứ không bị chết và người phạm tội cũng chỉ mong muốn cho nạn nhân bị
thương hoặc bị tổn hại đến sức khoẻ chứ không mong muốn cho nạn nhân bị chết.
Nếu nạn nhân chết là ngoài sự mong muốn của người phạm tội.
Các
trường hợp phạm tội trên, nếu thương tích của người bị hại dươí 11% thì người
phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự,
nếu thương tích của người bị hại từ 11% đến 30% thì người phạm tội bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự, nếu thương tích của
người bị hại 31% đến 60% thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự.
Nếu
không thuộc một trong các trường hợp nêu trên mà tỷ lệ thương tật của người bị
hại dưới 11% thì người phạm tội chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu tỷ lệ
thương tật của người bị hại từ 11% đến 30% thì người phạm tội bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự, nếu tỷ lệ thương tật của
người bị hại từ 31% đến 60% thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự, nếu tỷ lệ thương tật của người bị hại từ
61% trở lên thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3
Điều 104 Bộ luật hình sự.
11.
Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dẫn đến chết
người
Đây
là trường hợp người phạm tội chỉ cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức
khoẻ của nạn nhân, nhưng chẳng may nạn nhân bị chết, cái chết của nạn nhân lá
ngoài ý muốn của người phạm tội.
Thương
tích dẫn đến chết người, trước hết phải là thương tật nặng làm cho nạn nhân
chết vì thương tích này, tức là giữa cái chết của nạn nhân và thương tích mà
ngươig phạm tội gây ra cho nạn nhân phải có mối quan hệ nhân quả. Ví dụ: A chém
B làm cho B bị đứt động mạch chủ và do bị mất nhiều máu nên B bị chết. Tuy
nhiên, cũng coi là cố ý gây thương tích dẫn đến chết người trong trường hợp nạn
nhân là người cao tuổi, sức yếu bị bệnh nặng chỉ cần tác động không mạnh cũng
đủ làm cho nạn nhân bị chết, nhưng vì người phạm tội không biết tình trạng bệnh
tật của nạn nhân. Không coi là cố ý gây thương tích dẫn đến chết người, trong
trường hợp nạn nhân chỉ bị thương tích nhẹ, nhưng vì những lý do khách quan nên
nạn nhân bị chết. Ví dụ: Trần Văn H bị Đặng Quang M đâm vào bụng, H được mọi
người đưa vào bệnh viện cấp cứu, nhưng trước khi đưa H lên bàn mổ, một y tá đã
tiêm cho H một ống thuốc trợ lực nhưng lại nhầm thuốc nên chỉ sau khi rút kim
ra H đã bị chết.
Người
phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dẫn
đến chết người thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 104 Bộ
luật hình sự, nếu dẫn đến chết nhiều người thì người phạm tội bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 104 Bộ luật hình sự
12.
Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng.
Thực
tiễn xét xử cho thấy, ngoài trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác dẫn đến chết người, thì trong thực tế còn có một số
trường hợp mặc dù thương tích mà người phạm tội gây ra cho nạn nhân chưa phải
là nặng thậm chí không đáng kể, nhưng tính chất của tội phạm rất nghiêm trọng.
Ví dụ: Phạm Văn C do không nộp đủ mức khoáng sản nên bị hợp tác xã thu bớt lại
ruộng, C đã đến văn phòng hợp tác xã chửi rủa, đe doạ đồng chí chủ nhiệm. Sau
khi ở văn phòng hợp tác xã về, C nảy ý định trả thù đồng chí chủ nhiệm, y về
nhà lấy dao sang nhà đồng chí chủ nhiệm, chỉ có ba đá con nhỏ của đồng chí chủ
nhiệm đang chơi với nhau, trong đó có một cháu mới 4 tháng tuổi, C liền dùng
dao chém nhiều nhát vào người vào mặt cả ba cháu, nhưng vì C chỉ dùng chiếc dao
nhỏ sắc nên chỉ làm rách ra chảy máu, tỷ lệ thương tật của ba cháu không đáng
kể. Sự trả thù hèn hạ này của C đáng phải bị trừng trị nghiêm khắc. Chính vì
vậy, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá VIII đã bổ sung trường hợp phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng vào khoản 3 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 để đáp ứng yêu
cầu đấu tranh đối với những trường hợp phạm tội nghiêm trọng này. Sau khi Quốc
hội đã bổ sung vào khoản 3 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 tình tiết
"phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng", tuy chưa có văn
bản nào hướng dẫn trường hợp cố ý gây thương tích thế nào là thuộc trường hợp
đặc biệt nghiêm trọng, nhưng thực tiễn xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng đã
coi các trường hợp phạm tội sau đây là trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng:
-
Gây thương tích cho rất nhiều người trong đó có người bị thương tích nhẹ, có
người bị cố tật nặng hoặc có tỷ lệ thương tật trên 60%.
-
Gây thương tích nặng hoặc tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người (hai người trở
lên) mà mỗi người đều có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên
Ngoài
những trường hợp trên, tuỳ tình hình cụ thể của từng vụ án, xét đến tính chất
và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
do bị cáo gây ra mà có thể coi đó là trường hợp đặc biệt nghiêm trọng để xử
phạt bị cáo theo khoản 4 Điều 104 Bộ luật hình sự.
7
Điều 109 Bộ luật hình sự của Liên bang Nga có hiệu lực từ ngày 1-3-1996 quy
định: giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ cần thiết hoặc vướt quá giới hạn
phòng vệ cần thiết để bắt giữ người phạm tội . Số chuyên đề về Luật hình sự của
một số nước trên thé giới. Tạp chí dân chủ và pháp luật. Hà Nội năm 1988. tr.
79.
8 Xem
giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân
9 Xem
giét người để che giấu tội phạm khác
10
Nghị quyết số 04 ngày 29-11-1986 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao; Nghị quyết số 01 ngày 19-4-1989 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tói
cao
11 Xem
Đinh Văn Quế "các tình tiết tăng nặng, giám nhẹ trách nhiệm hình sự "
NXB chính trị Quốc gia.năm 2000.
Khuyến Mãi







