ĐINH
VĂN QUẾ
THẠC SĨ LUẬT HỌC – TOÀ ÁN NHÂN
DÂN TỐI CAO
BÌNH LUẬN BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999
PHẦN CÁC TỘI PHẠM
CHƯƠNG XII
CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH MẠNG, SỨC KHOẺ,
NHÂN PHẨM, DANH DỰ CỦA CON NGƯỜI
13.
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG
TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH ( ĐIỀU 105)
A.
CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
Đây
là tội phạm được nhà luật tách từ khoản
4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985.
Các dấu hiệu của tội phạm này cũng tương tự
như trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh quy định
tại Điều 95 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở ý thức chủ quan của phạm tội đối
với hậu quả và hậu quả thực tế đã xảy ra.
So
với khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985, thì các dấu hiệu cấu thành được
quy định tại Điều 105 đầy đủ hơn và hoàn toàn tương tự với các dấu hiệu cấu
thành tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định
tại khoản 3 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985.
Khoản
4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định "bị kích động mạnh vì
hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân", chứ chưa quy định
"hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc
người thân tích của người đó" như khoản 1 Điều 105 Bộ luật hình sự năm
1999. Mặt khác, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định rõ tỷ lệ thương tật là từ 31%
trở lên thì người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh mới bị truy cứu
trách nhiệm hình sự. Còn khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định
gây thương tích nặng. Tuy nhiên, theo hướng dẫn của Họi đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao thì thương tích hoặc tổn hại đến sức khoẻ của nạn nhân có tỷ
lệ thương tật 31% được coi là thương tích nặng. Trường hợp nạn nhân có tỷ lệ
thương tật dưới 31% thì người thực hiện hành vi không bị truy cứu trách nhiệm
hình sự.
Cơ
sở để xác nhận nạn nhân bị thương tích nặng hoặc bị tổn hại nặng đến sức khoẻ
là kết luận của Hội đồng giám định y khoa. Nếu ở nơi nào không có điều kiện tổ
chức Hội đồng giám định y khoa thì có thể căn cứ vào Bảng tiêu chẩn thương tật
được ban hành kèm theo Thông tư liên Bộ số 12/TTLB ngày 26-7-1995 của Bộ Y tế
và Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội để xác định tỷ lệ thương tật đối với người
bị hại.
Người
phạm tội chỉ có ý định gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn
nhân, chứ không mong muốn cho nạn nhân chết, nếu nạn nhân bị chết là nằm ngoài
ý muốn chủ quan của người phạm tội. Đây là vấn đề rất khó xác định, bởi lẽ
trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh, con người không còn đủ bình tĩnh
sáng suốt để lựa chọn một cách rành mạch có mong muốn hay không mong muốn cho nạn
nhân chết. Thông thường, người phạm tội chỉ hành động với ý thức bỏ mặc cho hậu
quả muốn ra sao thi ra, miễn là cho hả giận. Tuy vậy, thực tiễn xét xử vẫn có
không ít trường hợp trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh người phạm tội
vẫn còn đủ minh mẫn đẻ lựa chọn ahnhf vi chỉ gây thương tích cho nạn nhân,
nhưng chẳng may nạn nhân lại bị chết. Ví dụ: Đào Văn T nghị vợ mình ngoại tình
với Nguyễn Trung Đ. Một lần, T bắt gặp vợ mình và Đ đang ôm hôn nhau, T liền
dùng dao đâm nhiều nhát vào người Đ, vợ y thấy vậy ôm Đ đẩy ra thì bị trúng một
nhát dao vào bụng. Thấy vậy, T vội đưa vợ vào bệnh viện cấp cứu, nhưng do bị ra
nhiều máu, nên vơ của T đã chết sau đó 7 ngày. Trong trường hợp này, T hoàn
toàn không có ý định tước đoạt tính mạng của vợ, nhưng vì quá bực tức nên dùng
dao đâm Đ, chẳng may lại trúng vợ mình.
Các
dấu hiệu khác như: trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, hành vi trái pháp
luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối với người thân
thích của người phạm tội đều tương tự như đối với tội giết người trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh.
B.
CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1.
Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%
Trương
hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người và người này có
tỷ lệ thương tậ từ 31% đến 60% thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình
sự theo khoản 1 Điều 105 Bộ luật hình sự, có hình phạt từ cảnh cáo, cải tạo
không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến hai năm, là tội
phạm ít nghiêm trọng.
Theo
quy định của Bộ luật hình sự thì trường hợp phạm tội này là tội phạm ít nghiêm
trọng nhưng thương tích của người bị hại lại là thương tích nặng, nên khi xét
xử loại tội này, Toà án cần phân tích để người bị hại và những người khác biết
vì sao hình phạt cao nhất chỉ có hai năm tù, có trường hợp người phạm tội chỉ
bị phạt cảnh cáo hoặc cải tạo không giam giữ.
Đối
với khoản tiền buộc người phạm tội phải bồi thường cho người bị hại, Toà án
phải tính đến phần lỗi của người bị hại để quyết định cho thoả đáng, người bị
hại có lỗi càng nặng thì khoản bồi thường càng ít hơn so với trường hợp người
bị hại có lỗi bình thường.
2.
Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh
Gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh là gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của từ
hai người trở lên và mỗi người đều phải có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.
Hai
người trở lên bị thương tật từ 31% đến 60% đều phải là người có hành vi trái
pháp luật nghiêm trọng trọng đối với người phạm tội hoặc đối với người thân
thích của người phạm tội. Đây là quy định mới so với khoản 4 Điều 109 Bộ luật
hình sự năm 1985, nên chỉ áp dụng đối với hành vi phạm tội được thực hiện từ 0
giờ 00 ngày 1-7-2000.
Nếu
chỉ có một người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội
hoặc đối với người thân thích của người phạm tội, còn những người khác không có
hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc đối với người
thân thích của người phạm tội, thì người phạm tội bị truy cứu về hai tội: Tội
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái
tình thần bị kích động mạnh và tội "cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác" theo quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự.
Nếu
có nhiều người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội
hoặc đối với người thân thích của người phạm tội, nhưng chỉ có một người có tỷ
lệ thương tật từ 31% đến 60%, còn những người khác chỉ bị thương tật dưới 31 %
thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 105.
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử có trường hợp tuy chỉ có một người bị thương tật từ
31% đến 60%, nhưng lại có nhiều khác bị thương tật dưới 31% và tổng tỷ lệ
thương tật của những người này trên 31% thậm chí trên cả 60 %, nếu chỉ truy cứu
trách nhiệm hình sự người phạm tội theo khoản 1 Điều 105 thì không công bằng.
Tuy chưa có hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền về trường hợp phạm tội này,
nhưng theo chúng tôi nếu chỉ có một người bị thương tật 31% đến 60%, nhưng còn
gây gây thương tật cho nhiều người khác mà tổng tỷ lệ thương tật của những người
này từ 31% đến 60% thì cũng phải coi là
phạm tội đối với nhiều người và người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo khoản 2 Điều 105 Bộ luật hình sự, có như vậy mới thể hiện nguyên
tắc công bằng khi xử lý tội phạm.
3.
Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên
Đây
là trường hợp người phạm tội trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh dã
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương
tật của người bị hại từ 61% trở lên. Thương tật từ 61% trở lên là thương tật
rất nặng, nên trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội cũng nặng hơn so với
trường hợp chỉ gây thương tật cho một người có tỷ lệ thương tật 31% đến 60%.
Người
bị hại trong trường hợp này cũng phải là người có hành vi trái pháp luật nghiêm
trọng đối với người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội, nếu
không thuộc trường hợp trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì người phạm
tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Điều
luật không quy định thương tật 61% trở lên là thương tật của một người, nhưng
nếu áp dụng cho cả trường hợp nhiều người cùng bị thương tật từ 61% trở lên thì
không công bằng, nên cũng có ý kiến cho rằng các nhà làm luật nên cấu tạo Điều
105 có ba khoản, trong đó khoản 3 quy định trường hợp gây thương tật cho nhiều
người và mỗi người đều có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên và trường hợp dẫn đến
chết nhiều người. Hy vọng rằng ý kiến này sẽ được quan tâm khi sửa đổi Bộ luật
hình sự trong thời gian tới. Khi chưa có sửa đổi, bổ sung thì trường hợp gây
thương tật cho nhiều người và mỗi người có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên và
trường hợp dẫn đến chết nhiều người thì người phạm tội phải bị áp dụng cả điểm
a và điểm b khoản 2 Điều 105 Bộ luật hình sự và mức hình phạt phải cao hơn
trường hợp người phạm tội chỉ bị áp dụng một điểm ( a hoặc b) khoản 2 Điều 105
Bộ luật hình sự.
4.
Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh dẫn đến chết người
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại khoản 3
Điều 104 Bộ luật hình sự. Người bị hại bị chết là do chính vết thương mà người
phạm tội đã gây ra, nhưng người phạm tội hoàn toàn không mong muốn và cũng
không bỏ mặc, tức là không có căn cứ để xác định thuộc trường hợp giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh quy định tại Điều 95 Bộ luật hình
sự. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, việc phân biệt trường hợp nào là cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dẫn đến chết người,
còn trường hợp nào là giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
không đơn giản, vì một người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh rất
khó xác định mục đích của họ có mong muốn hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra hay
không. Do đó chỉ nên coi là cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác dẫn đến chết người nếu người bị hại không chết ngay mà sau một thời
gian nhất định, người bị hại đã được cứu chữa nhưng do vết thương quá nặng nên
đã chết.
Trường
hợp nếu dẫn đến chết nhiều người, khi chưa có sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự
thì người phạm tội bị áp dụng cả điểm a và b khoản 2 Điều 105 Bộ luật hình sự
và hình phạt đối với họ phải nặng hơn trường hợp chỉ dẫn đến chết một người.
5.
Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại khoản 4 Điều 104 Bộ
luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ, người phạm tội trong trường hợp này là trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và người bị hại là người có hành vi trái
pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của
người phạm tội, còn thế nào là trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng lại phụ
thuộc vào việc đánh giá của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố
tụng. Tuy nhiên trường hợp đặc biệt nghiêm trọng quy định ở đây không phải là
những trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
mà tỷ lệ thương tật từ 61% tở lên hoặc dẫn đến chết người, nhưng trường hợp đặc
biệt nghiêm trọng khác ở đây là những trường hợp nào thì các cơ quan tiến hành
tố tụng và người tiến hành tố tụng phải xác định.
Các
trường hợp phạm tội quy định tại khoản 2 Điều 105 Bộ luật hình sự là tội phạm
nghiêm trọng có khung hình phạt từ một năm đến năm năm. So với Bộ luật hình sự
năm 1985 thì đây là những quy định mới, do dó không áp dụng đối với người phạm
tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị truy cứu
trách nhiệm hình sự.
Cũng
như trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, khi xét
xử đối với loại tội này, Toà án cần phân tích để người bị hại và những người
tham dự phiên toà thấy được lỗi của người bị và hành vi phạm tội của bị cáo để
mọi người không có ấn tượng vì sao gây thương tích nặng, rất nặng thậm chí dẫn
đến chết người nhưng hình phạt tối đa có năm năm tù.
14.
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC DO VƯỢT
QUÁ GIỚI HẠN PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG ( ĐIỀU 106 )
Cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không
phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại, gây
thương tật cho người xâm hại từ 31% trở lên hoặc dẫn đến chết người.
A.
CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
Tội
phạm này được tách từ khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên Điều
106 Bộ luật hình sự được cấu tạo thành hai khoản, nhưng cả hai khoản đều là tội
phạm ít nghiêm trọng. So với khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985, thì
khoản 1 Điều 106 nhẹ hơn vì mức cao nhất của khung hình phạt là một năm tù,
nhưng khoản 2 của điều luật thì nặng hơn vì có mức cao nhất của khung hình phạt
là ba năm tù ( mức cao nhất của khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 là
hai năm tù )
Các
dấu hiệu của tội phạm này cũng tương tự như trường hợp giết người do vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng quy định tại Điều 96 Bộ luật hình sự. Do đó khi
xác định các dấu hiệu của tội phạm này, cũng phải căn cứ vào các quy định về
phòng vệ chính đáng, vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng tại Điều 15 Bộ luật hình sự.
Dấu
hiệu đặc trưng để phân biệt tội phạm này với tội giết người do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng là hậu quả và ý thức chủ quan của người phạm tội đối
với hậu quả.
Nếu
người bị hại chỉ bị thương hoặc bị tổn hại đến sức khoẻ thì tỷ lệ thương tật
phải từ 31% trở lên thì người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự ,
nếu tỷ lệ thương tật dưới 31% thì người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nếu
người bị hại bị chết thì cái chết của người bị hại là do bị thương mà đẫn đến
chết người chứ không phải vì nguyên nhân khác. Về phía người phạm tội không
mong muốn hoặc không bỏ mặc cho người bị hại chết, cái chết của người bị hại là
ngoài ý muốn của người phạm tội.
Các
dấu hiệu khác của tội phạm này như: hành vi xâm phạm của người bị hại, hành vi
chống trả của người phòng vệ đều tương tự như trường hợp giết người do vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng.
B.
CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1.
Phạm đối với một người
Do
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng mà gây thương tích cho một người hoặc dẫn
đến chết một người thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
khoản 1 Điều 106 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ cảnh cáo, cải tạo không
giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến một năm, là tội phạm ít
nghiêm trọng và cũng thuộc trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng. So với khoản 4
Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 thì trường hợp phạm tội này nhẹ hơn, nên được
áp dụng đối với hành vi phạm tội được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000
nhưng sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị xử lý.
Cũng
như đối với trường hợp giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, khi xét xử Toà án cần phân tích
để người bị hại và những người dự phiên toà thấy được hành vi xâm phạm của
người bị hại và quyền phòng vệ của người phạm tội.
Do
cấu tạo của điều luật, nên trường hợp bị thương tật trên 31% và trường hợp dẫn
đến chết người đều quy định trong cùng một khung hình phạt. Do đó khi xét xử,
nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau mà người bị hại chỉ bị thương tích từ
31% đến 60% thì nói chung không nên áp dụng hình phạt tù đối với người phạm
tội, chỉ áp dụng hình phạt tù đối với người phạm tội trong trường hợp người bị
hại bị thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người và có thể cho người
phạm tội được hưởng án treo nếu có đủ các điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ
luật hình sự.
2.
Phạm tội đối với nhiều người
Do
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng mà gây thương tích cho từ hai người trở
lên hoặc dẫn đến chết hai người trở lên, thì người phạm tội bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 106 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ một
năm đến ba năm tù, cũng là tội phạm ít nghiêm trọng.
Tất
cả những người bị thương đều phải có tỷ lệ từ 31% trở lên thì người phạm tội
mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 106. Nếu có nhiều người
bị thương, nhưng chỉ có một người bị thương tật với tỷ lệ từ 31% trở lên thì
người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 106 Bộ
luật hình sự. Tuy nhiên thực tiễn xét xử cho thấy có những trường hợp chỉ có
một người bị thương có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên và có nhiều người khác
bị thương tật dưới 31% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của những người này từ 31%
trở lên, thậm chí có trường hợp trên 61%.Vậy có truy cứu trách nhiệm hình sự
người phạm tội theo khoản 2 Điều 106 hay không ? Do tội phạm mới được tách ra
từ khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985, nên các cơ quan pháp luật chưa có
điều kiện tổng kết hướng dẫn. Nhưng theo chúng tôi, nếu quy định phạm tội đối
với nhiều người và mỗi người có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên thuộc trường
hợp phạm tội theo khoản 2 Điều 106 Bộ luật hình sự, thì trường hợp phạm tội này
cũng phải truy cứu người phạm tội theo khoản 2 Điều 106 Bộ luật hình sự, vì có
như vậy mới bảo đảm nguyên tắc công bằng.
Tuy
nhiên, nếu so sánh với trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 106 Bộ luật hình
sự, vẫn có những vấn đề bất hợp lý mà về lý luận cũng như thực tiễn xét xử cần
tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện. Ví dụ: Do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng gây thương tích dẫn đến chết một người thì thuộc trường hợp khoản 1 Điều
106, nhưng gây thương tích cho hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người là
31% thì lại bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 106 Bộ luật hình
sự là không hợp lý, vì hai người bị thương với tổng tỷ lệ thương tật là 62% lại
bị áp dụng hình phạt nặng hơn trường hợp dẫn đến chết một người. Vì vậy, chúng
tôi đề nghị khi sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định phạm tội đối với
nhiều người và tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết
nhiều người thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 106 Bộ
luật hình sự.
Đối
với trường hợp có nhiều người bị chết, thì tất cả những người bị chết đó đều
nằm ngoài ý muốn của người phạm tội và cái chết của họ là do bị thương mà dẫn
đến chết người chứ người phạm tội không có ý định tước đoạt tính mạng của họ.
Nếu có nhiều người bị chết do hành vi phòng vệ quá mức cần thiết, trong đó chỉ
có một người là do bị thương tích dẫn đến chết người còn những người khác không
thuộc trường hợp này thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai
tội: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo khoản 1 Điều 106 Bộ luật hình sự và
tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo Điều 96 Bộ luật
hình sự. Về lý luận là thế, nhưng thực tiễn xét xử it trường hợp các cơ quan
tiến hành tố tụng tách bạch như vậy mà thường chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự
người phạm tội theo Điều 96 Bộ luật hình sự về tội giết người do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng. Cả khoản 2 Điều 96 và khoản 2 Điều 106 Bộ luật hình sự
năm 1999 đều là những cấu thành mới chưa được thực tiễn xét xử kiểm nhiệm nên
không thể tránh khỏi những bất cập. Hy vọng rằng những bất cập này sẽ được tổng
kết qua thực tiễn xét xử và sẽ được xem xét sửa đổi bỏ sung cho phù hợp.
17.
TỘI GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG KHI THI
HÀNH CÔNG VỤ (
ĐIỀU 107 )
Gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành
công vụ là hành vi dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có tỷ lệ thương tật từ
31% trở lên.
A.
CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
Tội
phạm này cũng được tách ra từ khoản 2 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1985, nên
các dâu hiệu cơ bản của tội phạm này cũng tương tự như tội làm chết người trong
khi thi hành công vụ quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ
tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác người bị hại
chỉ bị thương tích hoặc bị tổn hại đến sức khoẻ, không có trường hợp nào người bị
hại bị chết. Đây cũng là đặc điểm khác với một số trường hợp gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh và gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Các
dấu hiệu về người phạm tội, về điều kiện để được công nhận là người đang trong
khi thi hành công vụ, về các trường hợp được sử dụng vuc lực trong khi thi hành
công vụ, về hành vi trái pháp luật của người bị hại. v.v... đều tương tự như
các dấu hiệu của tội làm chết người trong khi thi hành công vụ, chỉ khác nhau ở
hậu quả của tội phạm.
Hậu
quả của tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
khi thi hành công vụ chỉ làm cho người bị hại bị thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe từ 31% trở lên mà không làm chết người hoặc không dẫn đến chết
người.
Như
vậy, nếu có trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong khi thi hành công vụ mà dẫn đến chết người thì người phạm tội bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội làm chết người trong khi thi hành công vụ quy
định tại Điều 97 Bộ luật hình sự.
Về
lý luận, có nhều ý kiến khác nhau về quy định này. Vì sao đối với tội gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng lại có trường hợp
dẫn đến chết người còn tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong khi thi hành công vụ lại không quy định trường hợp dẫn đến
chết người. Trong khi đó, thực tế vẫn có thể xảy ra trường hợp trong khi thi
hành công vụ do sử dụng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép gây
thương tích dẫn đến chết người. Đây là vấn đề cả lý luận và thực tiễn vẫn còn
là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết.
Tuy
nhiên, qua thực tiễn xét xử và nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự về
các trường hợp phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, phạm tội
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và phạm tội trong khi thi hành
công vụ, chúng tôi thấy không nên quy định trường hợp dẫn đến chết ngươì trong
cả ba trường hợp phạm tội này, vì nếu thực tế có trường hợp nào dẫn đến chết
người, các cơ quan tiến hành tố tụng rất khó xác định ý thức chủ quan của người
phạm tội, dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất.
B.
CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1.
Trong khi thi hành công vụ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
một người
Nếu
trong khi thi hành công vụ do sử dụng vũ lực ngoiaf những trường hợp pháp luật
cho phép mà gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người và
người này có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên thì người phạm tội bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 107 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ
cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm, là tội
phạm ít nghiêm trọng. Tuy nhiên, so với khoản 2 Điều 103 Bộ luật hình sự năm
1985 thì quy định tại khoản 1 Điều 107 vẫn nặng hơn, do đó những hành vi được
thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị xử
lý thì không áp dụng khoản 1 Điều 107 Bộ luật hình sự năm 1999 mà vẫn áp dụng
khoản 2 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1985, vì mức hình phạt cải tạo không giam
giữ khoản 1 Điều 107 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định nặng hơn khoản 2 Điều
103 Bộ luật hình sự năm 1985.
2.
Trong khi thi hành công vụ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
nhiều người
Gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người trong khi thi hành
công vụ là gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của hai người trở lên
và mỗi người đều bị thương tật từ 31% trở lên.
Nếu
có nhiều người bị thương tật nhưng chỉ có một người có tỷ lệ từ 31% trở lên thì
người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 107 Bộ
luật hình sự.
Tuy
nhiên thực tiễn xét xử cho thấy, có trường hợp trong khi thi hành công vụ do sử
dụng vũ khí ngoài những trường hợp pháp luật cho phép gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của nhiều người nhưng chỉ có một người có tỷ lệ thương tật
từ 31 % trở lên, còn những người khác có tỷ lệ thương tật dưới 31% nhưng tổng
tỷ lệ thương tật lại trên 31%, thậm chí tới trên 61%.Vậy có truy cứu người phạm
tội theo khoản 2 Điều 107 không. Đây cũng là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu,
tổng kết vì khoản 2 Điều 107 Bộ luật hình sự là quy định mới, chưa có tổng kết
hướng dẫn, nhưng qua thực tiễn xét xử và nghiên cứu loại tội phạm này.
Theo
chúng tôi. do điều luật không quy định phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng
khác, do đó nếu gây thương tích cho nhiều người, trong đó có một người có tỷ lệ
thương tật từ 31% trở lên còn những người khác có tỷ lệ thương tật dưới 31 %
nhưng tổng tỷ lệ thương tật của những người này từ 31% trở lên thì người phạm
tội cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 107 Bộ luật hình sự.
Người phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ còn có thể bị cấm
đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến
năm năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù hoặc từ ngày bản án có hiệu lực
pháp luật nếu hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ
hoặc trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo.
16.
TỘI VÔ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC ( ĐIỀU 108 )
Vô
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi của
một người do cẩu thả mà không thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây
ra thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của người khác có tỷ lệ thương tật từ
31% trở lên, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước, hoặc tuy thấy trước
hành vi của mình có thể gây ra hậu quả đó, nhưng cho rằng hậu quả không xảy ra
hoặc có thể ngăn chặn được.
Tội
phạm này trước đây được quy định tại khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1985
với tội danh là "vô ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại nặng cho sức khỏe của người khác" và được hướng
dẫn thương tích nặng và tổn hại nặng cho sức khoẻ của người khác là gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật của nạn
nhân từ 31% trở lên. Nay Bộ luật hình sự năm 1999 quy định cụ thể mức tỷ lệ
thương tật là từ 31% trở lên thay cho thuật ngữ "thương tích nặng hoặc tổn
hại nặng cho sức khoẻ".
Điều
108 Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định một trường hợp phạm tội vô ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và quy định thêm hình
phạt bổ sung đối với tội này, còn trường hợp phạm tội do vi phạm quy tắc nghề
nghiệp hoặc quy tắc hành chính được quy định thành một tội danh riêng.
Trừ
hậu quả, còn tất cả các dấu hiệu khác của tội phạm đều tương tự như đối với tội
vô ý làm chết người quy định tại Điều 98 Bộ luật hình sự.
Hậu
quả do hành vi vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác phải có tỷ lệ từ 31% trở lên thì người phạm tội mới bị truy cứu trách
nhiệm hình sự, thương tích có thể gây ra cho một người hoặc có thể gây ra cho
nhiều người, nhưng không có trường hợp dẫn đến chết người, nếu người bị hại bị
thương đẫn đến chết người thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội vô ý làm chết người quy định tại Điều 98 Bộ luật hình sự.
Tuy
nhiên thực tiễn xét xử cho thấy có trường hợp do vô ý là chết một người và bị
thương tích một người có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên, thì việc truy cứu
người phạm tội như thế nào, một tội hay hai tội ? Nếu chỉ truy cứu về tội vô ý
làm chết người, còn việc gây thương tích cho người khác với tỷ lệ thương tật là
31% trở lên chỉ là tình tiết khi quyết định hình phạt thì bỏ lọt một hành vi
phạm tội, còn nếu truy cứu người phạm tội về tội vô ý làm chết người và tội vô
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì nguyên tắc
một hành vi phạm tội lại bị xử lý hai lần. Mặc dù chưa có hướng dẫn cụ thể,
nhưng thực tiẽn xét xử và qua nghiên cứu hai tội phạm này, chúng tôi thấy trong
trường hợp trên cần truy cứu người phạm tội về hai tội: tội vô ý làm chết người
và tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà
không bị coi là vị phạm nguyên tắc một hành vi phạm tội bị truy cứu trách nhiệm
hình sự hai lần, vì trong trường hợp này người phạm tội có hai hành vi phạm tội
chứ không phải chỉ có một hành vi phạm tội mặc dù cả hai hành vi này đều được
thực hiện cùng một lúc, cũng giống như trường hợp một người dùng súng bắn chết
một người khác nhưng đạn xuyên qua người
mà người phạm tội định giết trúng vào người đứng gần đó mà người phạm
tội không nhìn thấy và cũng không có ý định bắn gây thương tích cho người này
với tỷ lệ thương tật 45%. Hành vi trong trường hợp này tuy cùng được thực hiện
một lúc nhưng lại bao gồm hai hành vi phạm tội khác nhau nên bị truy cứu về hai
tội khác nhau.
Phạm
tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì bị
phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng
đến hai năm.
Người
phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định từ một năm đến năm năm. Đây là quy định hoàn toàn mới so với Điều 110
Bộ luật hình sự năm 1985 và cũng là quy định nghiêm khắc hơn cả trường hợp phạm
tội vô ý làm chết người quy định tại Điều 98 Bộ luật hình sự năm 1999. Qua thực
tiễn xét xử, cũng như nghiên cứu quy định này, chúng toi thấy quy định hình
phạt bổ sung đối với trường hợp phạm tội này là không hợp lý, hình phạt bổ sung
này chỉ phù hợp với trường hợp vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính. Mặt
khác, tội vô ý làm chết người quy định tại Đièu 98 Bộ luật hình sự cũng không
quy định các loại hình phạt bổ sung này và căn cứ để quy định các loại hình
phạt bổ sung đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác cũng không có. Vì vậy, chúng tôi đề nghị bỏ hình phạt bổ sung đối
với tội này khi có chủ trương sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999. Trong
thời gian chưa sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999, các cơ quan có thẩm
quyền nên hướng dẫn các Toà án không áp dụng hình phạt bổ sung đối với tội vô ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, vì khoản 2 Điều
108 Bộ luật hình sự cũng chỉ quy định người phạm tội còn "có thể"
bị... chứ không quy định "thì" bị...
17.
TỘI VÔ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC DO VI
PHẠM QUY TẮC NGHỀ NGHIỆP HOẶC QUY TẮC HÀNH CHÍNH ( ĐIỀU 109 )
Đây
là tội phạm được tách từ khoản 2 Điều 110 Bộ luật hình sự năm 1985, ngoài những
dấu hiệu như đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác quy định tại Điều 108 Bộ luật hình sự, thì tội phạm này còn có thêm
một trong hai dấu hiệu, đó là: người phạm tội do vi phạm quy tắc nghề nghiệp
hoặc do vi phạm quy tắc hành chính.
CÁC DẤU HIỆU CỦA TỘI PHẠM
Do
vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính mà vô ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nếu người bị hại có tỷ lệ thương
tật từ 31% trở lên thì người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Như
vậy căn cứ để xác định có hành vi phạm tội hay không trong trường hợp do vi
phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính mà vô ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là tỷ lệ thương tật của người bị hại.
Vì vậy, trong mọi trường hợp, các cơ quan tiến hành tố tụng phải trưng cầu giám
định pháp ý đối với nạn nhân.
Việc
xác định thế nào là do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc vi phạm quy tắc hành
chính được áp dụng tương tự như trường hợp đối với tội vô ý làm chết người do
vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính. Tội vô ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp
hoặc quy tắc hành chính chỉ khác tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc
nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính quy định tại Điều 99 Bộ luật hình sự ở một
điểm, đó là hậu quả ( thiệt hại về thể chất ) tực tế đã gây ra. Nếu chết người
là thuộc trường hợp quy định tại Điều 99 Bộ luật hình sự, nếu gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên thì thuộc
trường hợp quy định tại Điều 109 Bộ luật hình sự.
Người
phạm tội phải từ đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội vô
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy
tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính, vì đây là tội phạm ít nghiêm trọng có khung hình phạt từ sáu tháng
đến ba năm tù.
Tuy
nhiên, người phạm tội này còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ mọt năm đến năm năm (khoản 2 Điều 109). Việc
quy định hình phạt bổ sung đối với người phạm tội này là cần thiết, có tính
phòng ngừa cao.
18.
TỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC
(ĐIỀU 110)
Hành
hạ người khác là hành vi của một người đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình
một cách có hệ thống (lặp đi lặp lại nhiều lần) gây đau đớn về thể xác và tinh
thần cho người bị hành hạ.
A.
CÁC DẤU HIỆU CỦA TỘI PHẠM
1.
Về phía người phạm tội
Người
phạm tội có những hành vi đối xử tàn ác đối với người lệ thuộc mình như đánh
đập và những hành động bạo lực khác một cách có hệ thống được lặp đi lặp lại
nhiều lần.
Thông
thường, hành vi hành hạ được lặp đi lặp lại và kéo dài vài ngày, vài tuần, thậm
chí hàng tháng, hàng năm. Hành vi này không chỉ gây đau đớn về thể xác mà còn
gây đau khổ về tinh thần cho người bị hành hạ, nếu hành vi này có gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người bị hành hạ, thì cũng chỉ là thương
tích nhẹ chưa tới mức bị tuy cứu về tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác theo Điều 104 Bộ luật hình sự .
Về
hành vi khách quan, tội hành hạ người khác cũng tương tự như hành vi khách quan
của tội bức tử, chỉ khác nhau ở chỗ : trong tội hành hạ người khác, người bị
hành hạ không tự sát, nên có thể nói tội hành hạ người khác là hành vi khách
quan của tội bức tử.
2.
Về phía người bị hại
Người
bị hại phải là người có quan hệ lệ thuộc với người phạm tội, nếu bị hành hạ
nhưng không có mối quan hệ lệ thuộc với người có hành vi hành hạ thì người có
hành vi hành hạ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hành hạ người
khác, mà tuỳ vào hành vi cụ thể mà người có hành vi sẽ bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội làm nhục người khác theo quy định Điều 121 Bộ luật hình sự.
Mối
quan hệ lệ thuộc giữa người phạm tội với người bị hại là lệ thuộc về vật chất,
về tinh thần. Mối quan hệ này bắt nguồn từ quan hệ công tác (thủ trưởng với
nhân viên ), quan hệ thầy trò, quan hệ tôn giáo, quan hệ giữa người làm công
với chủ, nhất là đối với một số nhà hàng khách sạn tư nhân... Đối với quan hệ
hôn nhân (vợ chồng), quan hệ huyết thống (cha mẹ với các con, ông bà với các
cháu), quan hệ nuôi dưỡng ( cha mẹ nuôi với con nuôi, người đỡ đầu với người
được đỡ đầu) không thuộc đối tượng xâm phạm của tội phạm này mà là đối tượng
của tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có
công nuôi dưỡng mình quy định tại Điều 151 Bộ luật hình sự.
Thông
thường người bị hại trong tội phạm này, bị hành hạ ngược đãi, nhưng không dám
kêu hoặc phản ứng mà cam tâm chịu đựng, họ chỉ tố cáo khi mối quan hệ lệ thuộc
không còn nữa hoặc bị người khác tố cáo.
B.
CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1.
Trường hợp phạm tội thông thường
Đây
là trường hợp phạm tội chỉ có một người bị hại và người bị hại không phải là
người già, trẻ em, phụ nữ có thai hoặc người tàn tật.
Người
phạm tội trong trường hợp này bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều
110 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến một năm
hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm. So với Điều 111 Bộ luật hình sự năm
1985 quy định về tội phạm này thì không nặng hơn và cũng không nhẹ hơn ( Bộ
luật hình sự năm 1985 chỉ quy định một khung hình phạt cho tất cả mọi trường
hợp phạm tội, không phân biệt các trường hợp phạm tội như Bộ luật hình sự năm
1999 ).
2.
Phạm tội đối với người già, trẻ em, phụ nữ có thai hoặc người bị tàn tật
(điểm a khoản 2 Điều 110 )
ây
là trường hợp phạm tội mà người bị hại là những người cần được bảo vệ đặc biệt,
Bộ luật hình sự năm 1999 coi các trường hợp phạm tội này là nghiêm trọng hơn,
nên quy định thành tình tiết định khung tăng nặng, có hình phạt từ một năm đến
ba năm tù.
Hành hạ người già
Hành
hạ người già là trường hợp người phạm tội đối xử tàn ác với người già lệ thuộc
vào người phạm tội.
Việc
quy định phạm tội đối với người già là trường hợp phạm tội nghiêm trọng hơn là
xuất phát từ chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta là bảo vệ, chăm sóc người
già, vừa là chuẩn mực đạo đức xã hội, vừa là truyền thống tốt đẹp của dân tộc
ta. Phạm tội đối với người già, người phạm tội đã xâm phạm đến những người mà
lẽ ra họ phải kính trọng, xâm phạm đến người bị hạn chế khả năng chống cự lại
hành vi xâm phạm đến lợi ích của mình và đồng thời xâm phạm đến đạo đức xã hội,
truyền thống dân tộc và chính sách của Đảng và Nhà nước.
Người
già là người phải đến một độ tuổi nhất định. Nếu phạm tội đối với người chưa
đến độ tuổi đó, thì không coi là phạm tội đối với người già. Theo tài liệu về y
sinh học quóc tế, thì người từ 60 đến 74 tuổi là người có tuổi, từ 75 đến 89
tuổi là người già, từ 90 tuổi trở lên là người già sống lâu12. Tuy nhiên, đó
là quy định về sinh học, còn về pháp lý, thực tiễn xét xử, các Toà án đã coi
người từ 60 tuổi trở lên là người già.
Tình
tiết phạm tội đối với người già cũng không phải là tình tiết thuộc ý thức chủ
quan của người phạm tội. Do đó cũng không cần thiết phải yêu cầu người phạm tội
biết người mà mình xâm phạm là người già thì họ mới bị coi là phạm tội đối với
người già, mà chỉ cần căn cứ vào tuổi của người bị xâm phạm để xác định người
phạm tội có phạm tội đối với người già hay không.
Hành hạ trẻ em
Hành
hạ trẻ em là trường hợp người phạm tội
đói xử tàn ác với người lệ thuộc mình mà người bị lệ thuộc là trẻ
em
Theo
Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì người dưới 16 tuổi là trẻ
em.
Phạm
tội đối với trẻ em được coi là trường hợp phạm tội nghiêm trọng hơn, không chỉ
xuất phát từ quan điểm bảo vệ trẻ em là bảo vệ tương lai của đất nước, bảo vệ
lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn bảo vệ những
người không có khả năng tự vệ.
Khi
áp dụng trường hợp phạm tội này cần chú
ý một số điểm sau:
-
Việc xác định tuổi của người được xác định là trẻ em là một yêu cầu bắt buộc
của các cơ quan tiến hành tố tụng. Hồ sơ vụ án nhất thiết phải có giấy khai
sinh của người bị hại là trẻ em, nêu không có giấy khai sinh thì phải có các
tài liệu chứng minh người bị hại là người chưa đến 16 tuổi. Tuy nhiên, thực
tiễn xét xử có nhiều trường hợp việc xác định tuổi của người bị hại gặp rất
nhiều khó khăn, các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng hết mọi biện pháp
nhưng vẫn không xác định được tuổi của người bị hại. Vậy trong trường hợp này
tính tuổi của người bị hại như thế nào ? Hiện nay có hai ý kiến trái ngược
nhau: ý kiến thứ nhất cho rằng, nếu không biết ngày sinh thì lấy ngày cuối cùng
của tháng đó, nếu không biết tháng sinh thì lấy tháng cuối cùng của năm đó,
cách tính này là không có lợi cho ngời phạm tội. Còn ý kiến thứ hai thì cho
rằng, nếu không biết ngày sinh thì lấy ngày đầu tiên của tháng đó, nếu không
biết tháng sinh thì lấy tháng cuối cùng của năm đó, cách tính này theo hướng có
lợi cho người phạm tội. Để có căn cứ xác định tuổi của người bị hại nhất là
người bị hại lại là trẻ em, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần có hướng dẫn
cụ thể.13
-
Phạm tội đối với trẻ em không phải là tình tiết thuộc ý thức chủ quan của người
phạm tội mà là tình tiết khách quan, do đó không cần người phạm tội phải nhân
thức được hoặc buộc họ phải nhận thức được đối tượng mà mình xâm phạm là trẻ em
thì mới coi là tình tiết tăng nặng, mà chỉ cần xác định người mà người phạm tội
xâm phạm là trẻ em thì người phạm tội đã bị coi là phạm tội đối với trẻ em rồi.
14
Hành hạ với phụ nữ có thai.
Hành
hạ phụ nữ có thai là trường hợp người phạm tội đối xử tàn ác với người lệ thuộc
mình mà người bị lệ thuộc là phụ nữ đang có thai
Cũng
như trường hợp hành hạ trẻ em, hành hạ phụ nữ có thai không phải là tình tiết
thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội, nên không yêu cầu người phạm tội phải
biết người mà mình hành hạ đang có thai. Trường hợp phạm tội này khác với
trường hợp "giết phụ nữ mà biết là có thai" quy định tại điểm b khoản
1 Điều 93 Bộ luật hình sự. Do đó, Nhà làm luật chỉ quy định "đối với phụ
nữ có thai" chứ không quy định "mà biết là có thai". Vì vậy, chỉ
cần xác định người phụ nữ bị hành hạ đang có thai là người phạm tội bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 2 Điều 110 Bộ luật hình sự.
Khi
áp dụng tình tiết tăng nặng này đối với người phạm tội cần chú ý một số điểm
như sau:
Người
phụ nữ đang có thai, không kể cái thái đó ở tháng thứ mấy;
Việc
xác định người phụ nữ có thai hay không nhất thiết phải do giám định viên hoặc
bác sỹ chuyên khoa;
Hành
hạ người tàn tật
Hành hạ người tàn
tật là đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình mà người bị lệ thuộc là người bị
tàn tật
Người bị tàn tật là người bị một tật và bị tàn phế, không
có khả năng tự vệ như người bình thường, như bị cụt chân, bị bại liệt, bị mù,
bị câm điếc... Tuy nhiên, không coi là hành hạ người tàn tật nếu người bị hành
hạ chỉ bị một tật nhỏ không ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ, vẫn có khả năng tự vệ
như người bình thường. Ví dụ: Một người bị thương tật có tỷ lệ 12%, thậm chí
21% nhưng vẫn khoẻ mạnh.
Phạm tội đối với nhiều người (điểm b
khoản 2 Điều 110)
Hành hạ nhiều người là trường hợp đối xử tàn ác với từ hai
người lệ thuộc mình trở lên. Có thể cả hai người trở lên cùng bị hành hạ trong
một thời gian hoặc có thể không cùng một thời gian. Ví dụ: Tô Sỹ T là chủ Nhà
hàng Caraoke đã có hành vi hành hạ chị Đỗ Thị L là tiếp viên Nhà hàng làm chị L
phải bỏ trốn khỏi Nhà hàng, nhưng không dám tố cáo hành vi phạm tội của T. sau
đó T lại tiếp tục có hành vi hành hạ chị Trần Kim D và bị chị D tố cáo hành vi
phạm tội của T trước cơ quan pháp luật. Trong quá trình điều tra,mới phát hiện
trước đó T còn hành hạ chị L nên T bị truy cứ trách nhiệm hình sự theo điểm b
khoản 2 Điều 110
19. TỘI HIẾP DÂM (ĐIỀU 111)
Hiếp dâm là hành vi của một người dùng vũ lực, đe doạ
dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc
dùng thủ đoạn khác giao cấu với người khác trái với ý muốn của họ.
Hiếp dâm là tội xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về tình
dục của phụ nữ
A. CÁC DẤU HIỆU CỦA TỘI PHẠM
Hành vi khách quan
Người phạm tội thực hiện việc hiếp dâm có thể dùng vũ
lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn
nhân hoặc dùng thủ đoạn khác giao cấu với người khác trái với ý muốn của họ.
So với Điều 112 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội
phạm này, thì Bộ luật hình sự năm 1999 mô tả hành vi khách quan đầy đủ và cụ
thể hơn. Nếu như Điều 112 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định: "người
nào dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác" thì Điều 111 Bộ luật hình sự năm
1999 quy định: "người nào dùng vũ lực,
đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân
hoặc dùng thủ đoạn khác". Như vậy, so với Bộ luật hình sự năm 1985, Điều
111 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định thêm hai hành vi khách quan trong cấu
thành tội phạm này, nhưng không vì thế mà cho rằng tội hiếp dâm quy định tại
Điều 111 Bộ luật hình sự năm 1999 đã thay đổi về chất so với tội hiếp dâm quy
định tại Điều 112 Bộ luật hình sự năm 1985. Việc nhà làm luật quy định thêm hai
hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm chỉ làm cho việc áp dụng dễ dàng,
thuận tiện hơn, chứ không làm cho bản chất thay đổi. Tuy nhiên, về cấu tạo,
Điều 111 Bộ luật hình sự năm 1999 được cấu tạo lại hợp lý hơn so với Điều 112
Bộ luật hình sự năm 1985.
a. Hành vi dùng vũ lực
Hành vi dùng vũ lực trong tội hiếp dâm cũng tương tự với
hành vi dùng vũ lực ở một số tội phạm khác mà người phạm tội có dùng vũ lực,
nhưng ở tội hiếp dâm, hành vi dùng vũ lực là nhằm giao cấu với người bị tấn
công. Hành vi này, thông thường là làm thế nào để buộc người phụ nữ phải để cho
kẻ tấn công giao cấu như: Vật lộn, giữ chân tay, bịp mồm, bóp cổ, đánh đấm, trói
v.v... Những hành vi này chủ yếu làm tê liệt sự kháng cự của người bị hại để
người phạm tội thực hiện được việc giao
cấu. Tuy nhiên, thực tế có trường hợp người phạm tội đã dùng vũ lực tới mức làm cho người bị hại
bất tỉnh nhưng chưa bị chết và sau khi người phạm tội đã thoả mãn dục vọng, người bị hiếp đã chết
thì người phạm tội còn phải bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội giết người, ngoài tội hiếp dâm mà họ đã thực hiện.
Bởi vì, người phạm tội đã bỏ mặc cho hậu
quả chết người xảy ra miễn là y thoả mãn được dục vọng.
b.
Hành vi đe doạ dùng vũ lực
Đe
doạ dùng vũ lực là hành vi của một người dùng lời nói hoặc hành động uy hiếp
tinh thần của người khác, làm cho người bị đe doạ sợ hãi như: doạ giết, doạ
đánh, doạ bắn... làm cho người bị hại sợ hãi phải để cho người phạm tội giao
cấu trái với ý muốn của mình. Điều luật không quy định đe doạ dùng vũ lực ngay
tức khắc, nên có thể hiểu hành vi đe doạ dùng vũ lực quy định ở đây bao gồm cả
trường hợp đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc và trường hợp đe doạ dùng vũ lực
như trường hợp đối với tội cưỡng đoạt tài sản quy định tại Điều 135 Bộ luật
hình sự.
c.
Hành vi lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân
Lợi
dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân là trường hợp nạn nhân rơi
vào tình trạng nếu như bị người khác giao cấu thì không thể chống cự lại được.
Tình
trạng này, có thể do chính người phạm tội tạo ra cho nạn nhân để thực hiện việc
giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân. Ví dụ: Trần Văn T bỏ thuốc mê vào cốc
nước để chị Đào Xuân D uống. Sau khi uống nước chị D mê không biết gì nữa, nên
T đã thực hiện hành vi giao cấu với chị D. Cũng có trường hợp nạn nhân rơi vào
tình trạng không thể tự vệ được do những lý do khách quan khác không do người
phạm tội gây ra cho nạn nhân, nhưng người phạm tội đã lợi dụng tình trạng đó để
giáo cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ. Ví dụ: Chu Văn H là Y sĩ bệnh viện huyện K tỉnh T đã lợi dụng lúc chị
L đang truyền huyết thanh để giao cấu với chị L, mặc dù biết H giao cấu với
mình, nhưng vì đang truyền huyết thanh và nghe H dặn: "Nếu cử động, huyết
thanh chảy ra ngoài sẽ bị cưa tay" nên chị L không giám chống cự.
d.
Hành vi dùng thủ đoạn khác
Thủ
đoạn khác là những thủ đoạn ngoài những hành vi
đã được quy định trong cấu thành ( dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực, lợi
dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân). Đây là quy định mở nhằm đáp
ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm này, bởi lẽ thực tiễn xét xử có
những trường hợp hành vi phạm tội của người phạm tội không thuộc mọt trong các
hành vi cụ thể đã được quy định trong cấu thành, nhưng hành vi này bản chất lại
là hành vi hiếp dâm và việc truy cứu người phạm tội về tội hiếp dâm là cần
thiết. Tuy nhiên, khi xác định hành vi dùng thủ đoạn khác để giáo cấu trái với
ý muốn của nạn nhân cần chú ý một số vấn đề sau:
Những
thủ đoạn mà người phạm tội thực hiện hoặc lợi dụng phải là những thủ đoạn nhằm
đưa người bị hại lâm vào tình trạng không còn khả năng làm chủ bản thân để
người phạm tội giao cấu trái với ý muốn
của họ như: cho uống thuốc kích dục hoặc lợi dụng sự kém hiểu biết của nạn nhân
để thực hiện hành vi giao cáu trái với ý muốn của nạn nhân. Ví dụ: Hà Đ là Bác
sỹ chữa bệnh tại nhà. Cháu Hoàng Thị M
15 tuổi là người dân tộc thiểu số bị bệnh đến nhà Đ để Đ khám và chữa
bệnh cho cháu M, Đ nói với cháu M là muốn khoẻ mạnh và có nước da trắng hồng
thì đặt thuốc vào âm đạo, cháu M đồng ý đặt thuốc. Đ đã lợi dụng việc đặt thuốc
cho cháu M để thực hiện hành vi giao cấu với cháu M. Sau khi đặt thuốc, cháu M
đã kể lại toàn bộ hành vi của Đ với mẹ cháu, nên vụ án bị phát hiện.
đ.
Hành vi giao cấu trái với ý muốn của người phụ nữ
Giao
cấu trái với ý muốn của người phụ nữ là hành vi khách quan của cấu thành tội
hiếp dâm, nhưng không phải trường hợp nào người phạm tội giao cấu được với người bị hại thì mới là
phạm tội hiếp dâm mà trong nhiều trường hợp người phạm tội mới có hành vi dùng vũ lực nhằm giao cấu với
người bị hại là đã phạm tội hiếp dâm rồi. Trong trường hợp này gọi là phạm tội
hiếp dâm chưa đạt (chưa thực hiện được hết hành vi thuộc mặt khách quan của cấu
thành). Về dấu hiệu này, cũng có nhiều quan điểm khác nhau: Có ý kiến cho rằng,
nếu người phạm tội chưa giao cấu được với người bị hại thì chưa coi là đã phạm
tội hiếp dâm, vì người bị hại chưa bị hiếp và để phản bác lại ý kiến này, lại
có ý kiến cho rằng tội hiếp dâm là tội cấu thành hình thức như đối với tội
cướp, chỉ cần người phạm tội có hành vi
vũ lực là tội phạm đã hoàn thành. Theo chúng tôi thì cả hai ý kiến trên đều
không chính xác, vì ngay trong điều văn của điều luật về tội hiếp dâm đã thể
hiện hành vi giao cấu là dấu hiệu khách quan của cấu thành (dấu hiệu bắt buộc)
"Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không
thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu vớnanj nhân", chứ
không quy định như ở tội cướp "nhằm" chiếm đoạt. Thông thường, đối
với các tội cấu thành hình thức, điều văn của điều luật thường dùng từ
"nhằm" để chỉ mục đích của người phạm tội. Ví dụ: Tôị phản bội Tổ
quốc (Điều 78), tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền (Điều 79), tội xâm phạm
an ninh lãnh thổ (Điều 81), tội bạo loạn (Điều 82), tội hoạt động phỉ (Điều 83)
v.v...Từ những phân tích trên, chúng ta cũng thấy rõ tội hiếp dâm là tội cấu
thành vật chất chứ không phải cấu thành hình thức như một số người vẫn lầm
tưởng.
Giao
cấu là hành vi, đồng thời cũng là hậu quả xảy ra của tội hiếp dâm (người bị hại
đã bị hiếp). Về vấn đề này, chắc sẽ có người không đồng tình, vì hậu quả là kết
quả của một hành vi gây ra, là mối quan hệ nhân quả giữa A (hành vi) và B (hậu
quả), không thể có một hiện tượng vừa là A lại vừa là B. Đúng là như vậy, nhưng
ở đây hành vi giao cấu không bao giờ là nguyên nhân của hậu quả bị giao cấu mà
hậu quả bị giao cấu là kết quả của hành vi dùng vũ lực nhằm giao cấu. Cũng
tương tự như vậy, chúng ta có thể coi hành vi chiếm đoạt trong các tội xâm phạm
sở hữu vừa là hành vi nếu xét từ phía người phạm tội, vừa là hậu quả nếu xét từ
phía người bị hại (bị chiếm đoạt).
e)
Trái với ý muốn của người bị hại.
Đây
là một dấu hiệu hết sức quan trọng mà thực tiễn xét xử không ít trường hợp khó
xác định, vì về phía người bị hại, trong một số trường hợp do nhiều nguyên nhân
khác nhau đã khai với các cơ quan tiến hành tố tụng không đúng với trạng thái
tâm lý của mình, có người do có sự thoả thuận nhưng lại khai với nhà chức trách
là mình bị hiếp, ngược lại có người bị hiếp thật, nhưng bị người phạm tội mua
chuộc lại khai là có sự thoả thuận. Thông thường khi xác định tội phạm người ta
xét đến ý thức chủ quan của người phạm tội, nhưng đối với tội hiếp dâm, thì ý
thức chủ quan của người bị hại lại là vấn đề rất quan trọng để xác định có tội
hay không có tội.
Để
xác định việc giao cấu có trái với ý muốn của người bị hại hay không, ngoài lời
khai của người bị hại, chúng ta còn phải căn cứ vào nhiều yếu tố khác như: mối
quan hệ giữa hai người, thủ đoạn thực hiện tội phạm, hoàn cảnh cụ thể khi xảy
ra việc giao cấu, nhân thân của cả hai người, ý kiến nhận xét của những cơ
quan, tổ chức xã hội nơi hai người công tác, của bạn bè, của cha mẹ và các tình
tiết khác của vụ án, tránh chủ quan phiến diện. Chỉ khi nào chứng minh việc
giao cấu đó là trái với ý muốn của người bị hại (người phụ nữ) thì người có
hành vi giao cấu(người đàn ông) mới bị coi là phạm tội hiếp dâm.
Dấu
hiệu trái với ý muốn của người bị hại là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội hiếp
dâm, nhưng dấu hiệu này chỉ có ý nghĩa đối với trường hợp người bị hại từ 13
tuổi trở lên, còn đối với trường hợp người bị hại chưa đủ 13 tuổi thì dù có
trái ý muốn hay không, người có hành vi giao cấu với họ đều là phạm tội hiếp
dâm và người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 112
Bộ luật hình sự (xem tội hiếp dâm trẻ em).
ý
thức chủ quan của người phạm tội
Người
phạm tội thực hiện hành vi của mình là do cố ý, điều này chắc mọi người đều
thống nhất, không ai có ý kiến trái ngược. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cũng có
một số trường hợp khó xác định sự cố ý hiếp dâm của người phạm tội. Thông
thường, người phạm tội bào chữa rằng mình không có ý giao cấu với nạn nhân mà
chỉ có ý định trêu gẹo trong những trường hợp người phạm tội mới có hành vi
dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được
của nạn nhân hoặc dùng thủ đoạn khác nhưng chưa giao cấu được, cùng lắm là
người phạm tội chỉ nhận có hành vi làm
nhục. Ví dụ: Trần Văn B, Nguyễn Văn C, Phạm Quốc K vào công viên chơi thì gặp
chị H ngồi nói chuyện với anh Q. Trần Văn B đến hăm doạ anh Q và vu cho anh Q
cướp người yêu của B, anh Q thấy B có ba người nên sợ bỏ đi. B và đồng bọn
khống chế buộc chị H phải đi với chúng. Vì sợ quá nên chị H buộc phải đi theo
bọn B. Khi đến chỗ vắng B và đồng bọn cởi quần áo của chị H ra, cùng lúc đó,
chị H nhìn thấy có xe đi tuần tra của công an nên dã kêu cứu và sau đó B cùng
đòng bọ bị bắt. Do chị H chưa bị B và đồng bọn giao cấu, nên bọn B chỉ khai
rằng, chúng không có ý giao cấu với chị H mà chỉ muốn dâm ô với chị H mà thôi.
Đối với trường hợp đã giao cấu được với người bị hại, thì người phạm tội lại
bào chữa rằng, tưởng người bị hại đồng ý nên mới giao cấu hoặc khẳng định là
người bị hại đồng ý nhưng sau đó lại tố cáo với cơ quan pháp luật. Ví dụ: Lê
Văn K mới quen chị Mai Ngọc T ở một quán giải khát, ba hôm sau, K gọi điện hẹn
chị T đến một địa điểm vắng. Taị đây, lúc đầu K tán tỉnh, không thấy chị T phản
ứng gì K liền ôm chị T đòi giao cấu nhưng chị T chống cự quyết liệt, nhưng K đã
dùng sức lực và giao cấu được với chị T. Lúc đang hành động thì gắp tổ tuần tra
đi qua đã đưa hai người về trụ sở Công an giải quyết. Tại đây, K khai rằng việc
giao cấu với chị T là do được chị T đồng ý.
Khi
gặp những trường hợp như trên xảy ra, đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng
phải chứng minh sự cố ý của người phạm tội, chứ không phải tin ngay vào lời
khai của người phạm tội, thậm chí ngay cả lời khai của người bị hại. Thực tiễn
xét xử đã có trường hợp trong quá trình điều tra, tại phiên toà sơ thẩm, người
bị hại đều khai rằng, việc họ bị giao cấu là trái với ý muốn, nhưng tại phiên
toà phúc thẩm họ lại khai rằng, họ đồng tình để người phạm tội giao cấu, Toà án
cấp phúc thẩm đã tin lời khai này của người bị hại để tuyê bố bị cáo không phạm
tội hiếp dâm, nhưng sau khi bản án có hiệu lực pháp luật đã phát hiện lời khai
của người bị hại tại phiên tòa phúc thẩm là lời khai man do phía bị cáo mua
chuộc.
B.
NHỮNG TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1.
Hiếp dâm người từ đủ 18 tuổi trở lên (khoản 1 Điều 111)
Trong
trường hợp, chỉ có một người bị hiếp dâm mà người bị hiếp dủ 18 tuổi trở lên,
thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 111 Bộ
luật hình sự, có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù là tội phạm nghiêm
trọng, và theo Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự, thì vụ án chỉ được khởi tố nếu
người bị hại yêu cầu. Trong trường hợp người bị hại rút yêu cầu trước ngày mở
phiên tòa thì vụ án phải được đình chỉ. Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết,
mặc dù người bị hại rút yêu cầu, Viện kiểm sát hoặc Toà án vẫn có thể tiếp tục
tiến hành tố tụng đối với vụ án.
2.
Hiếp dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi (đoạn 1 khoản 4 Điều 111)
Người
chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi, nhưng chỉ những người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi mà bị hiếp dâm thì người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình
sự theo đoạn 1 khoản 4 Điều 111 Bộ luật
hình sự có khung hình phạt từ năm năm đến mười năm tù. Vì vậy, gặp phải trường
hợp này các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh tuổi của người bị hại,
biện pháp chứng minh có hiệu quả nhất là giấy khai sinh của người bị hại. Tuy
nhiên, thực tế cũng có một số trường hợp, không có giấy khai sinh hoặc giấy
khai sinh không đúng với tuổi thật của họ, thì phải xác minh tuổi thật của người
bị hại. Tuổi của người bị hại là một thực tại khách quan không phụ thuộc vào
nhận thức của người phạm tội, chỉ cần xác định người bị hại là người từ đủ 16
tuổi đến đưới 18 tuổi là người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo đoạn 1 khoản 4 Điều 111 Bộ luật hình sự rồi. Cũng chính vì vậy mà điều văn
của điều luật chỉ quy định: "Phạm tội hiếp dâm người chưa thành
niên". Chứ không quy định: "Phạm tội hiếp dâm mà biết người bị hiếp
là người chưa thành niên".
Nếu
phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 của
Điều 111 Bộ luật hình sự thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các
khoản đó ( xem từ mục 3 đến mục 15 trong phần này)
3.Hiếp dâm người mà người phạm tội có trách
nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh ( điểm b khoản 2 Điều 111)
Đây
là trường hợp tách từ đoạn hai khoản 1 Điều 112 Bộ luật hình sự năm 1985. Người
phạm tội và người bị hại trong trường hợp này phải có mối quan hệ, trong đó
người phạm tôi có nghĩa vụ đối với người bị hại. Nghĩa vụ này xuất phát từ quan
hệ huyết thống như bố mẹ đối với con cái, quan hệ giáo dục như thầy giáo đối
với học sinh, quan hệ chữa bệnh như thầy thuốc đối với bệnh nhân v.v...
Khi
xét đến các quan hệ này, cần chú ý là chỉ khi nào hành vi phạm tội của người có
trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh đã lợi dụng sự chăm sóc, giáo dục,
chữa bệnh để hiếp dâm người được chăm sóc, được giáo dục hoặc được chữa bệnh
thì mới thuộc trường hợp phạm tội này, nếu hành vi hiếp dâm không liên quan đến
việc chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Ví
dụ: Nguyễn Văn B là giáo viên trường PTTH huyện K, một lần B cùng với một số
bạn đi ăn nhậu, trên đường về gặp em Vũ Thị C
là học sinh lớp 11 của trường, các bạn của B trêu gẹo C và cùng B kéo C
vào chỗ vắng hãm hiếp. Sau khi gây án, B mới biết em C là học sinh của trường.
Phạm
tội hiếp dâm người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa
bệnh thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 2
Điều 111 Bộ luật hình sự, là tội phạm rất nghiêm trọng có khung hình phạt từ
bảy năm đến mười lăm năm tù. So với đoạn 2 khoản 1 Điều 112 Bộ luật hình sự năm
1985 quy định về trường hợp phạm tội này thì điểm b khoản 2 Điều 111 Bộ luật
hình sự năm 1999 nặng hơn, do đó không được áp dụng điểm b khoản 2 Điều 111 Bộ
luật hình sự năm 1999 đối với hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày
1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.
4.
Hiếp dâm có tổ chức
( điểm a khoản 2 Điều 111)
Hiếp
dâm có tổ chức cũng như trường hợp phạm tội có tổ chức khác. Các dấu hiệu của
phạm tội có tổ chức được quy định tại khoản 3 Điều 20 Bộ luật hình sự. Phạm tội
có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng
thực hiện tội phạm. Khái niệm đồng phạm được Bộ luật hình sự nước ta ghi nhận
tại Điều 20 với định nghĩa là "có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện
một tội phạm là đồng phạm", nhưng phạm tội có tổ chức lại là hình thức
đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ hơn; Phạm tội có tổ chức bao gồm nhiều người
cùng tham gia, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người
giúp sức. Đối với tội hiếp dâm có tổ chức, có thể tất cả những người tham gia
đều là người thực hành (đều có hành vi giao cấu với người bị hại) nhưng cũng có
trường hợp có người không giao cấu vớ người bị hại nhưng vẫn bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội hiếp dâm. Ví dụ: A, B, C, D bàn bạc bắt chị M đến một nơi
vắng, chúng phân công B và C giữ chân tay chị M, còn D bịt mồm chị M để cho A
giao cấu với chị M. Sau khi A giao cấu xong, hắn bảo D hiếp chị M để hắn bịt
mồm, nhưng D chưa kịp giao cấu với chị M thì bị tổ tuần tra phát hiện bắt giữ.
Trong trường hợp này, mặc dù chỉ có A gao cấu với chị M, nhưng tất cả bốn tên
A, B, C, D đều bị truy cứu trách niệm hình sự về tội hiếp dâm với tình tiết là
hiếp dâm có tổ chức.
Người
phạm tội hiếp dâm có tổ chức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm a
khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm
tù. So với điểm a khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về trường
hợp phạm tội này thì không nhẹ hơn và cũng không nặng hơn, do đó nếu hành vi
phạm tội được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày
1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng điểm a khoản 2 Điều 112 Bộ luật
hình sự năm 1985, vì theo khoản 1 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định:
"điều luật được áp dụng đối với một hành vi phạm tội là điều luật đang có
hiệu lực thi hành tại thời điểm mà hành vi phạm tội được thực hiện". Tuy
nhiên, tại mục 4 Thông tư liên tịch số 02 ngày 5-7-2000 của Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an lại hướng dẫn " đối với những tội phạm đã được quy
định trong một điều luật của Bộ luật hình sự năm 1985, nay theo cách so
sánh...mà vẫn giữ nguyên trong điều luật tương ứng của Bộ luật hình sự năm
1999, thì áp dụng điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999 để truy cứu trách
nhiệm hình sự ". Hướng dẫn này rõ ràng là không đúng với khoản 1 Điều
7 Bộ luật hình sự năm 1999. Hy vọng rằng các cơ quan ban hành thông tư trên sớm
thống nhất để hướng dẫn lại cho đúng với
quy định tại khoản 1 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999.
5.
Nhiều người hiếp một người
( điểm c khoản 2 Điều 111)
Khác
với trường hợp hiếp dâm có tổ chức, trường hợp nhiều người hiếp một người là
tất cả những người tham gia dù có tổ chức hay không có tổ chức đều giao cấu với
người bị hại, nếu phạm tội có tổ chức mà lại có từ hai người trở lên giao cấu
với nạn nhân thì những người giao cấu với nạn nhân phạm tội có hai tình tiết đó
là: hiếp dâm có tổ chức và nhiều người có một người, và trong trường hợp này
hình phạt đối với họ sẽ nặng hơn những người khác nếu các tình tiết khác của vụ
án như nhau. Người phạm tội trong trường hợp này sẽ bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo điểm c khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ bảy
năm đến mười lăm năm tù.
6.
Hiếp dâm nhiều lần
( điểm d khoản 2 Điều 111)
Hiếp
dâm nhiều lần là trường hợp một người hiếp một người từ hai lần trở lên hoặc
nhiều người hiếp một người, trong đó mỗi người hiếp nạn nhân từ hai lần trở
lên. Nếu nhiều người hiếp một người, trong đó mỗi người hiếp nạn nhân từ hai
lần trở lên thì người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm c
và điểm d khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự, nếu chỉ có một người hiếp mọt người
từ hai lần trở lên thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm
d khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm
năm tù.
7.
Hiếp dâm nhiều người
( điểm đ khoản 2 Điều 111)
Hiếp
dâm nhiều người là trường hợp một người đã hiếp dâm từ hai người trở lên hoặc
nhiều người cùng hiếp dâm từ hai người trở lên. Đây là trường hợp có nhiều
người bị hiếp, trong đó ít nhất mỗi người bị hiếp một lần, còn người phạm tội
có thể là một người hoặc nhiều người. Vì vậy khi xác định hành vi phạm tội, các
cơ quan tiến hành tố tụng cần phải phân biệt:
Nếu
có một người hiếp dâm từ hai người trở lên và tất cả nạn nhân chỉ bị hiếp một
lần, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm đ khoản 2
Điều 111 Bộ luật hình sự;
Nếu
có một người hiếp dâm từ hai người trở lên, trong đó có nạn nhân bị hiếp một
lần, có nạn nhân bị hiếp nhiều lần, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo điểm d và điểm đ khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự;
Nếu
có nhiều người phạm tội ( phạm tội có tổ chức hoặc là đồng phạm thông thường),
trong đó có nhiều người bị hiếp nhưng tất cả nạn nhân chỉ bị hiếp một lần thì
tất cả người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm đ khoản 2 Điều
111 Bộ luật hình sự, nếu là phạm tội có tổ chức thì còn bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo điểm a khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự, nếu có một người bị hai
người trở lên hiếp thì còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điẻm c khoản 2
Điều 111 Bộ luật hình sự.
8.
Hiếp dâm có tính chất loạn luân (
điểm e khoản 2 Điều 111)
Tính
chất loạn luân được thể hiện ở chỗ giữa người phạm tội hiếp dâm với người bị
hại có cùng dòng máu trực hệ ( bố mẹ với con cái, ông bà với các cháu), giữa
anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha.
Hiếp
dâm có tính chất loạn luân là trường hợp hiếp dâm có tính nguy hiểm cao hơn
trường hợp hiếp dâm bình thường khác, qua thực tiễn xét xử thấy cần phải trừng
trị nghiêm khắc người phạm tội hiếp dâm
có tính chất loạn luân, nên ngày 10-5-1997 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá IX
đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự, trong đó quy
định hiếp dâm có tính chất loạn luân là tình tiết định khung tăng nặng đối với
tội hiếp dâm quy định tại điểm d khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự và người phạm
tội bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. Bộ luật hình sự năm 1999 quy định
lại tình tiết phạm tội này tại điểm e khoản 2 Điều 111 với khung hình phạt như
khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự năm 1985.
9.
Hiếp dâm làm nạn nhân có thai
( điểm g khoản 2 Điều 111)
Đây
cũng là tình tiết được bổ sung cùng với tình tiết “hiếp dâm có tính chất loạn
luân”. Hiếp dâm mà làm nạn nhân có thai là do hành vi hiếp dâm của người phạm
tội mà nạn nhân có thai, tức là cái thai của nạ nhân là kết quả của việc giao
cấu giữa người phạm tội với nạn nhân. Nếu nạn nhân tuy có bị hiếp dâm nhưng
việc nạn nhân có thai lại là kết quả của việc giao cấu giưã nạn nhân với người
khác thì người phạm tội hiếp dâm không phải chịu tình tiết “làm nạn nhân có
thai”. Nói chung thực tiễn xét xử trường hợp phạm tội này thường xảy ra đối với
người phạm tội thực hiện hành vi giao cấu với người bị hại nhiều lần, người
phạm tội không từ chối cái thai trong bụng nạn nhân là của mình, nên rất ít khi
phải trưng cầu giám định. Tuy nhiên, kết quả giám định cũng không phải chứng cứ
duy nhất để xác định cái thai trong bụng nạn nhân có phải là của người phạm tội
không. Vì vậy, để xác định nạn nhân có thai có đúng là do hành vi hiếp dâm gây
ra không, cần phải đánh giá một cách khách quan toàn diện; chỉ khi nào có đủ
căn cứ xác định nạn nhân có thai là do hành vi hiếp dâm gây ra thì người phạm
tội hiếp dâm mới phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm g khoản 2 Điều 111 Bộ
luật hình sự có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm tù.
10.
Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% ( điểm h khoản 2 Điều 111)
Trường
hợp phạm tội này, Bộ luật hình sự năm 1985 quy định là "gây tổn hại nặng
cho sức khoẻ của nạn nhân" (điểm e khoản 2 Điều 112). Tuy không có hướng
dẫn cụ thể, nhưng thực tiễn xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng đã coi trường
hợp "gây tổn hại nặng cho sức khoẻ của nạn nhân" là trường hợp nạn
nhân bị hiếp có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%. Do đó, khi soạn thảo Bộ luật
hình sự năm 1999, Ban soạn thảo đã thay tình tiết "gây tổn hại nặng cho
sức khoẻ của nạn nhân" bằng tình tiết "gây
tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%"
cho phù hợp với thực tiễn xét xử và được Quốc hội thông qua. Như vậy căn cứ để
xác định tình tiết phạm tội này là kết quả giám định thương tật của nạn nhân do
Hội đồng giám định pháp y kết luận.
11.
Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm ( điểm i khoản 2 Điều 111)
Người
phạm tội hiếp dâm bị coi là tái phạm nguy hiểm nếu đã bị kết án về tội rất
nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại
phạm tội hiếp dâm thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4
Điều 111 Bộ luật hình sự, hoặc đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm
tội hiếp dâm.
Đối
với tội hiếp dâm, cũng như đối với một số tội phạm khác nếu thuộc trường hợp
tái phạm nguy hiểm, thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nặng
hơn trường hợp không phải là tái phạm nguy hiểm. Việc trừng trị những người
phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là rất cần thiết, bởi vì chứng tỏ
người phạm tội không chịu phục thiện,
cần phải có thời gian cải tạo dài hơn mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa
tội phạm. Các dấu hiệu về tái phạm nguy hiểm được quy định tại khoản 2 Điều 49
Bộ luật hình sự chúng tôi đã có dịp giới thiệu trong cuốn: "Các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự" (NXB chính trị quốc gia - năm
2000) cũng như các trường hợp tái phạm nguy hiểm khác trong các tội xâm phạm
tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người. Người phạm tội hiếp dâm lại
là người tái phạm nguy hiểm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm g
khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm
tù.
12.
Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên ( điểm a khoản 3 Điều 111)
Trường
hợp phạm tội này, Bộ luật hình sự năm 1985 quy định là "gây tổn hại rất
nặng cho sức khoẻ của nạn nhân" (điểm a khoản 3 Điều 112). Trường hợp phạm
tội này cũng tương tự như trường hợp hiếp dâm gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn
nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% quy định tại điẻm h khoản 2 Điều 111 Bộ
luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ, tỷ lệ thương tật của nạn nhân trong trường
hợp này là từ 61% trở lên và người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình
sự theo điểm a khoản 3 Điều 111 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ mười hai
năm đến hai mươi năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. So với điểm a khoản 3 Điều
112 Bộ luật hình sự năm 1985 thì đây là quy định nặng hơn vì khoản 3 Điều 112
Bộ luật hình sự năm 1985 có mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân,
do đó nếu hành vi phạm tội được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0
giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì người phạm tội chỉ bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình sự năm 1985.
13.
Người phạm tội biết mình nhiễm HIV mà vẫn phạm tội ( điểm b khoản 3 Điều 111)
Đây là tình tiết mới được quy định xuất phát từ yêu cầu
của xã hội. Cùng với việc quy định tình tiết này trong tội hiếp dâm và một số
tội xâm phạm tình dục khác, Bộ luật hình sự năm 1999 còn quy định thêm hai tội
về lây truyền HIV, đó là tội lây truyền HIV cho người khác (Điều 117) và tội cố
ý truyền HIV cho người khác (Điều 118). Vì vậy, chỉ áp dụng đối với hành vi
phạm tội từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 trở đi.
Người phạm tội biết mình nhiễm HIV mà vẫn hiếp dâm, tức
là cố ý lây truyền HIV cho người khác bằng hành vi hiếp dâm, làm cho tính chất
và mức độ của hành vi hiếp dâm nguy hiểm hơn nhiều so với trường hợp hiếp dâm
bình thường.
Khi áp dụng tình tiết này đối với người phạm tội cần chú
ý một số điểm như sau:
Nếu có căn cứ cho rằng người phạm tội biết mình nhiễm HIV
mà vẫn hiếp dâm thì mới áp dụng tình tiết này, nếu người phạm tội bị niễm HIV
thật nhưng họ không biết, sau khi phạm tội cơ quan Y tế mới xét nghiệm thấy
người phạm tội bị nhiễm HIV thì không áp dụng tình tiết này đối với người phạm
tội. Đây là tình tiết thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội, nên các cơ quan
tiến hành tố tụng cần phải xác định người phạm tội biết rõ mình bị nhiễm HIV
thì mới thuộc trường hợp này.
Chỉ cần xác định người phạm tội biết mình nhiễm HIV mà
vẫn hiếp dâm là thuộc trường hợp phạm tội này rồi mà không cần phải xác định
người bị hại có bị lây nhiễm HIV hay không. Ví dụ: Đoàn Văn T do tiêm chích ma
tuý nhiều nên đã được Trung tâm Y tế nơi T cai nghiện xác định T đã bị nhiễm
HIV và nói rõ cho T biết để có biện pháp không lây truyền cho người khác. Do
chán đời lại bị một số tên cùng cai nghiện với T rủ rê lôi kéo, nên T đã cùng
một số tên trốn khỏi Trung tâm cai nghiện. Sau khi trốn khỏi Trung tâm cai
nghiện, T và đồng bọn thực hiện hành vi hiếp dâm chị H. Sau khi phạm tội, đồng
bọn của T cho biết T bị nhiễm HIV, cơ quan Y tế xét nghiệm chị H không bị nhiễm
HIV, nhưng T vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 3 Điều 111
với tình tiết "biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội".
14. Hiếp dâm làm nạn nhân chết (điểm c khoản 3 Đièu 111)
Đây là trường hợp nạn nhân do bị hiếp dâm mà chết, nếu
nạn nhân bị chết không phải là do bị hiếp mà do nguyên nhân khác thì không
thuộc trường hợp phạm tội này mà tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể
bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm và tội phạm tương ứng với hành
vi làm cho nạn nhân bị chết. Nếu hành vi của người phạm tội có đủ dấu hiệu của
tội giết người thì truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người và tội hiếp
dâm. Ví dụ : Đỗ Mạnh H và Trần Quang C đã bắt chị Nguyễn Thị Kim X vào trong
một Điếm canh đê thay phiên nhau hãm hiếp, chị X van xin bọn chúng tha cho về,
nhưng H và C sợ tha chị X về chị sẽ tố cáo nên chúng đã bóp cổ chị X cho đến chết
rồi vứt xác xuống sông để phi tang. Cũng có trường hợp lúc đầu người phạm
tội đã dùng vũ lực làm cho nạn nhân bị
ngất rồi thực hiện hành vi giao cấu với nạn nhân, nhưng sau đó người phạm tội bỏ mặc cho nạn nhân dẫn đến cái chết cho nạn
nhân thì cũng không phải là hiếp dâm làm nạn nhân chết mà người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai
tội : Tội giết người và tội hiếp dâm. Trường hợp hiếp dâm làm nạn nhân chết là
trường hợp do bị hiếp (thường là bị nhiều người hiếp) nạn nhân do sức yếu không
chịu nổi sự hãm hiếp của người phạm tội
nên bị chết. Có trường hợp do quá sợ hãi nên nạn nhân bị ngất đi và sau
đó bị chết thì cũng coi là trường hợp hiếp dâm làm nạn nhân chết.
15. Hiếp dâm làm nạn nhân tự sát (
điểm c khoản 3 Điều 111)
Một người tự sát có thể do nhiều nguyên nhân, nhưng nếu
vì bị hiếp dâm mà tự sát thì người đã hiếp dâm nạn nhân sẽ phạm tội thuộc
trường hợp hiếp dâm làm nạn nhân tự sát. Tuy nhiên, để xác định một người tự
sát là do bị hiếp không phải bao giờ cũng dễ dàng. Do phong tục tập quán ở mỗi
địa phương khác nhau, trình độ nhận thức của mỗi người cũng khác nhau, nhưng
nhìn chung hầu hết những người bị hại trong các vụ án hiếp dâm đều không muốn
cho mọi người biết là mình bị hiếp dâm. Phụ nữ nước ta có truyền thống lấy chữ
“trinh” làm đầu, mặc dù là người bị hại, nhưng người bị hại trong các vụ án
hiếp dâm lại là phụ nữ, nhất là những phụ nữ chưa có chồng nếu mọi người biết
đã bị hiếp thì tương lai của người này sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ, có người nghĩ
quẩn đã tự sát, đối với những phụ nữ đã có chồng mà bị hiếp dâm lại có tâm
trạng sợ chồng ruồng bỏ, nếu gặp phải người chồng còn mang nặng tư tưởng phong
kiến dễ dẫn đến việc nạn nhân nghĩ quẩn mà tự sát. Đây cũng là đặc điểm của tội
hiếp dâm ở nước ta mà các cơ quan tiến hành tố tụng phải thận trọng khi tiến
hành điều tra, truy tố, xét xử, nếu xét thấy cần thiết thì phải xét xử kín để
giữ cho nạn nhân tránh khỏi những dị nghị gây bất lợi cho họ.
Chỉ cần xác định nạn nhân vì bị hiếp dâm mà tự sát, còn
nạn nhân có bị chét hay không, không phải là dấu hiệu bắt buộc đẻ xác định tình
tiết phạm tội này. Tuy nhiên nếu nạn nhân tự sát và bị chết mức hình phạt sẽ
cao hơn trường hợp nạn nhân tự sát mà không chết.
Hiếp dâm gây tổn hại cho sức khoe của nạn nhân mà tỷ lệ
thương tật từ 61% trở lên; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; làm nạn nhân
chết hoặc tự sát, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản
3 Điều 111 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ mười hai năm đến hai mươi năm,
tù chung thân hoặc tử hình. Tuy mức cao nhất của khung hình phạt đều là tử
hình, nhưng mức thấp nhất của khung hình phạt ở khoản 3 Điều 111 chỉ có mười
hai năm, so với khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về các tường
hợp phạm tội này thì khoản 3 Điều 111 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều khoản
của Bộ luật hình sự nhẹ hơn. Do đó, những hành vi phạm tội trước 0 giờ 00 ngày
1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì người phạm
tội được áp dụng khoản 3 Điều 111 Bộ luật hình sự năm 1999 để xử lý.
Người phạm tội hiếp dâm theo quy định tại Điều 111 còn có
thể bị áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định từ một năm đến năm năm theo quy định tại khoản 4 Điều 111 Bộ
luật hình sự
12
Trích theo bài "Gặp gỡ giáo sư Phạm Khuê", Báo Hà Nội mới, số ngày
chủ nhật, 20-4-1986
13 Xem
Đinh Văn Quế "người bị hại trong vụ án hình sự" Tạp chí Toà án nhân
dân số 12 năm 1997.
14 Xem Đinh Văn Quế "Xác định tuổi của
người bị hại trong vụ án hình sự như thế nào". Tạp chí dân chủ và Pháp
luật số 7 năm 1999
Khuyến Mãi








