Đinh Văn Quế
- Thạc sĩ Luật học – Tòa án Nhân dân tối cao
BÌNH LUẬN BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999
PHẦN CÁC TỘI PHẠM
CHƯƠNG XII
CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH MẠNG, SỨC KHOẺ,
NHÂN PHẨM, DANH DỰ CỦA CON NGƯỜI
20. TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM (ĐIỀU 112)
Hiếp dâm trẻ em là hành vi của một người dùng vũ lực, đe
doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc
dùng thủ đoạn khác giao cấu với người dưới 16 tuổi.
Tội hiếp dâm trẻ em là tội phạm mới được quy định tại
luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự được Quốc hội thông qua
ngày 10-5-1997, trên cơ sở tách một phần đoạn 2 khoản 1 và toàn bộ khoản 4 Điều
112 Bộ luật hình sự chưa được sửa đổi vào ngày 10-5-1997 do yêu cầu của việc
đấu tranh với tệ xâm phạm tình dục của trẻ em ngày càng nghiêm trọng thành Điều
112. Bộ luật hình sự năm 1999 về cơ bản vẫn giữ lại các dấu hiệu, các tình tiết
định khung hình phạt như Điều 112 Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, có bổ
sung, sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn xét xử và tình hình phát triển của xã
hội.
A. CÁC DẤU HIỆU CỦA TỘI PHẠM
Các dấu hiệu của tội hiếp dâm trẻ em về cơ bản tương tự
như tội hiếp dâm mà nạn nhân không phải là trẻ em quy định tại Điều 11 Bộ luật
hình sự. Tuy nhiên, vì nạn nhân là trẻ em nên có một vài dấu hiệu thuộc về phía
nạn nhân không giống với trường hợp hiếp dâm mà nạn nhân không phải là trẻ em
như : Đối với nạn nhân từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì phải xác định việc
giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân, còn đối với nạn nhân dưới 13 tuổi thì dù
nạn nhân có đồng ý hay không đồng ý giao cấu thì người phạm tội vẫn bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em.
Việc nhà làm luật quy định nạn nhân dưới 13 tuổi dù có
đồng ý để người phạm tội giao cấu thì
hành vi giao cấu này vẫn bị coi là phạm tội hiếp dâm trẻ em xuất phát từ luận
điểm : ở độ tuổi dưới 13 trẻ em còn hết sức non nớt, yếu ớt, chưa có khả năng
biểu lộ ý chí đúng đắn, dễ bị người khác lôi kéo, rủ rê, mua chuộc, khó có thể
tự vệ được, nên cần được bảo vệ một cách đặc biệt nhằm bảo đảm sự phát triển
bình thường, lành mạnh của các em mà cần phải trừng trị thật nghiêm khắc đối
với hành vi xâm phạm tình dục đối với các em.
Tuổi của nạn nhân (người bị hiếp) là dấu hiệu bắt buộc
của cấu thành tội hiếp dâm trẻ em. Việc xác định tuổi của người bị hại trên cơ
sở giấy khai sinh của họ nếu trường hợp mất giấy khai sinh hoặc không có giấy
khai sinh thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng tất cả các biện pháp
có thể được, để xác định tuổi thật của người bị hại. Cuối cùng nếu không còn
cách nào để xác định tuổi thật của người bị hại, thì theo nguyên tắc có lợi cho
người phạm tội, tuổi của người bị hại sẽ được xác định như sau : Nếu chỉ biết
tháng và năm sinh thì lấy ngày đầu tiên của tháng đó làm ngày sinh của người bị
hại. Ví dụ : Chỉ biết người bị hại sinh vào tháng 5-1986, thì lấy ngày 1-5-1986
là ngày sinh của người bị hại ; nếu chỉ biết năm sinh mà không biết ngày tháng
thì lấy ngày đầu của tháng đầu tiên trong năm đó làm ngày sinh của người bị hại
để tính tuổi. Ví dụ : Chỉ biết người bị hại sinh năm 1985 thì lấy ngày 1-1-1985
là ngày sinh của người bị hại. Việc xác định ngày sinh của người bị hại theo
cách trên là có lợi cho người phạm tội, nhưng chưa được các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền hướng dẫn nên thực tiễn xét xử còn có nhiều ý kiến khác nhau, nhiều
địa phương không đồng ý với cách xác định tuổi của người bị hại theo hướng có
lợi cho ngươì phạm tội và cho rằng làm như vậy sẽ không cương quyết trừng trị
người phạm tội hiếp dâm trẻ em, trẻ em
bị hiếp dâm cần phải bảo vệ đặc biệt. Hy vọng rằng các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền cần xúc tiến ngay việc hướng dẫn cách tính tuổi của người bị hại trong
trường hợp không có giấy khai sinh hoặc các giấy tờ có ý nghĩa xác định tuôỉ
của người bị hại. Bởi vì vấn đề này có ý nghĩa vô cùng quan trọng liên quan đến
mức hình phạt của người phạm tội. Ví dụ : nếu nạn nhân bị hiếp dâm tròn 13 tuổi
nếu không có các tình tiết quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 112 Bộ luật
hình sự thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1
Điều 112 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm tù,
nhưng nếu nạn nhân thiếu một ngày mới tròn 13 tuổi thì người phạm tội bị truy
cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự có khung hình
phạt từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
B - CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ :
1. Hiếp dâm trẻ em
từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi ( khoản 1 Điều 112)
Trong trường hợp chỉ có một người hiếp một người mà nạn
nhân đã đủ 13 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi và không có các tình tiết quy định tại
khoản 2, khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 112 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ bảy
năm đến mười lăm năm tù. Việc xác định trường hợp phạm tội này chủ yếu là xác
định tuổi của người bị hại.
2. Hiếp dâm trẻ em
có tính chất loạn luân ( điểm a khoản 2 Điều 112)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm
tội quy định tại điểm e khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự về tội hiếp dâm đã
nghiên cứu ở trên, chỉ khác ở chỗ người bị hiếp trong trường hợp này là trẻ em
từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Vấn đề đặt ra là, vậy người bị hiếp dưới 13 tuổi, đồng
thời lại có tính chất loạn luân thì có cần xác định phạm tội có tính chất loạn
luân và áp dụng điểm a khoản 2 Điều 112 không, hay chỉ áp dụng khoản 4 Điều
112?. Đặt vấn đề như vậy là xuất phát từ thực tiễn xét xử đã có không ít trường
hợp Toà án chỉ căn cứ vào các tình tiết quy định ở khung hình phạt nặng hơn và
bỏ qua các tình tiết quy định ở khung hình phạt nhẹ hơn vì cho rằng việc xác
định các tình tiết quy định ở khung hình phạt nhẹ hơn không còn có ý nghĩa nữa.
Ví dụ : Một người phạm tội hiếp dâm trẻ em dưới 13 tuổi và phạm tội có những
tình tiết như: có tính chất loạn luân; phạm tội nhiều lần; gây tổn hại cho sức
khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên.v.v... nhưng Toà án chỉ
xác định người phạm tội hiếp dâm trẻ em dưới 13 tuổi mà không đề cập đến các
tình tiết khác vì cho rằng, người phạm tội đã bị áp dụng khoản 4 Điều 112 rồi,
nên việc xác định các tình tiết khác không còn ý nghĩa nữa. Theo chúng tôi,
cách đặt vấn đề như vậy là không toàn diện, vì việc xác định đầy đủ các tình
tiết của vụ án là một nguyên tắc và ngay cả trong trường hợp người phạm tội đã
được xác định thuộc trường hợp phải áp dụng khung hình phạt nặng nhất thì cũng
không vì thế mà bỏ qua các tình tiết được quy định ở khung hình phạt nhẹ hơn.
Nếu chúng ta xác định đầy đủ các tình tiết thì việc quyết định một hình phạt cụ
thể cho người phạm tội sẽ chính xác hơn. Tuy nhiên, nếu một người phạm tội có
nhiều tình tiết, trong đó có tình tiết được quy định ở khung hình phạt nhẹ, có
tình tiết được quy định ở khung hình phạt nặng thì Toà án chỉ áp dụng khung
hình phạt nặng để quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Ví dụ : Đào Văn
T phạm tội hiếp dâm trẻ em, vừa có tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 112 Bộ
luật hình sự vừa có tình tiết quy định
tại khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình sự thì
Toà án chỉ áp dụng khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt đối
với Đào Văn T.
3. Hiếp dâm trẻ em
làm nạn nhân có thai ( điểm b khoản 2
Điều 112)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm
tội làm nạn nhân có thai quy định tại điểm g khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự
đối với tội hiếp dâm chúng ta đã nghiên cứu ở trên, chỉ khác một điểm là nạn
nhân có thai trong trường hợp này là trẻ em dưới 16 tuổi. Tuy nhiên, khi xác
định nạn nhân có thai trong trường hợp phạm tội này cần chú ý thời điểm có thai
đối với nạn nhân bị hiếp dâm nhiều lần, trong đó có hai lần nạn nhân chưa đủ 16
tuổi, có lần nạn nhân đã đủ 16 tuổi và lần có thai lại là lần nạn nhân đã đủ 16
tuổi thì không thuộc trường hợp hiếp dâm trẻ em làm nạn nhân có thai mà thuộc
trường hợp phạm tội nhiều lần quy định tại điểm c khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình
sự.
4. Gây tổn hại cho
sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% (
điểm c khoản 2 Điều 112)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm
tội quy định tại điểm h khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ
nạn nhân trong trường hợp phạm tội này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi,
nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì đều thuộc trường hợp phạm tội quy định tại khoản
4 Điều 112 Bộ luật hình sự và tình tiết gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân
chỉ còn là tình tiết xem xét khi quyết định hình phạt chứ không phải tình tiết
định khung hình phạt nữa. Tuy nhiên các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải xác
định tình tiết này khi giải quyết vụ án.
5. Hiếp dâm trẻ em
mà nạn nhân là người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa
bệnh (
điểm d khoản 2 Điều 112)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm
tội quy định tại điểm b khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ
nạn nhân trong trường hợp này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn
nhân chưa đủ 13 tuổi thì thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 112 Bộ luật
hình sự và tình tiết phạm tội này chỉ là tình tiết xem xét khi quyết định hình
phạt chứ không còn là tình tiết định khung hình phạt nữa.
6. Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm (
điểm đ khoản 2 Điều 112)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm
tội quy định tại điểm 1 khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự chúng ta đã nghiên cứu
ở trên, các dấu hiệu để xác định trường hợp tái phạm nguy hiểm trong mọi trường
hợp đều như nhau, vì đây là tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội.
Phạm tội hiếp dâm trẻ em thuộc một trong các tình tiết :
Có tính chất loạn luân ; làm nạn nhân có thai ; gây tổn hại cho sức khoẻ của
nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; đối với người mà người phạm tội có
trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; tái phạm nguy hiểm, thì người phạm
tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ mười hai năm đến hai
mươi năm tù. So với khoản 2 Điều 112a Bộ
luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn,
nên những hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ
00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 2 Điều 112 Bộ luật
hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.
Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau thì người phạm
tội có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 112 phải bị xử phạt nặng hơn
người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 112
7. Hiếp dâm trẻ em
có tổ chức (
điểm a khoản 3 Điều 112)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự trường hợp phạm tội
hiếp dâm có tổ chức quy định tại điểm a khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự chúng
ta đã nghiên cứu ở trên, chỉ có khác ở chỗ trường hợp phạm tội này nạn nhân là
trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và khung hình phạt không phải là khoản 2
của điều luật mà là khoản 3. Như vậy cũng là hiếp dâm có tổ chức, nhưng nạn
nhân càng it tuổi thì hình phạt đối với người phạm tội lại cáo cao. Nếu nạn
nhân dưới 13 tuổi thì cũng như các trường hợp phạm tội trên, người phạm tội
phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự, còn
tình tiết có tổ chức chỉ có ý nghĩa xem xét khi quyết định hình phạt. Nếu phạm
tội hiếp dâm trẻ em có tổ chức mà nạn nhân lại chưa đủ 13 tuổi thì hình phạt
đối với người phạm tội sẽ phải nặng hơn trường hợp nạn nhân đủ 13 tuổi đến dưới
16 tuổi.
8. Nhiều người hiếp một người mà nạn nhân là trẻ em ( điểm b khoản 3 Điều 112)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm
tội nhiều người hiếp một người quy định tại điểm c khoản 2 Điều 111 Bộ luật
hình sự, chỉ có khác ở chỗ trường hợp phạm tội này nạn nhân là trẻ em từ đủ 13
đến dưới 16 tuổi và khung hình phạt không phải là khoản 2 của điều luật mà là
khoản 3. Nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự và bị xử phạt rất nghiêm
khắc.
9. Nhiều lần hiếp dâm trẻ em ( điểm c khoản 3 Điều 112)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm
tội nhiều lần quy định tại điểm d khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở
chỗ trường hợp phạm tội này nạn nhân bị hiếp là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới
16 tuổi và khung hình phạt không phải là khoản 2 của điều luật mà là khoản
3. Nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì người
phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự
và ngươì phạm tội sẽ bị xử phạt rất nghiêm khắc.
Khi xác định tình tiết nhiều lần hiếp dâm trẻ em cần chú
ý một điểm là: Phải có từ hai lần hiếp dâm trở lên mà các lần đó nạn nhân đều
dưới 16 tuổi, nếu chỉ có một lần nạn nhân bị hiếp là dưới 16 tuổi còn các lần
khác nạn nhân đã đủ 16 tuổi thì không thuộc trường hợp phạm tội hiếp dâm trẻ em
nhiều lần. Tuy nhiên, trường hợp nhiều lần hiếp dâm một người, nhưng chỉ có một
lần nạn nhân dưới 16 tuổi còn các lần khác nạn nhân đã đủ 16 tuổi, vậy trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội được xác định như thế nào? Vấn đề này cho đến nay cả về lý luận cũng như
thực tiễn xét xử đang tồn tại các ý kiến khác nhau :
Quan điểm thứ nhất cho rằng, nếu phạm tội hiếp dâm nhiều
lần trong đó có một lần nạn nhân chưa đủ 16 tuổi còn các lần khác nạn nhân đã
đủ 16 tuổi thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm
trẻ em không có tình tiết phạm tội nhiều lần.
Quan điểm thứ hai cho rằng, chỉ cần truy cứu trách nhiệm
hình sự người phạm tội về tội hiếp dâm có tình tiết phạm tội nhiều lần theo
điểm d khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự.
Quan điểm thứ ba cho rằng cần truy cứu trách nhiệm hình
sự người phạm tội về hai tội : Tội hiếp dâm theo Điều 111 và tội hiếp dâm trẻ
em theo Điều 112 Bộ luật hình sự vì người phạm tội có hai hành vi phạm tội vào
hai thời điểm khác nhau, tuy cùng xâm phạm đến một người bị hại .
Có thể còn ý kiến khác, nhưng theo chúng tôi chỉ nên truy
cứu trách nhiệm hình sự người có hành vi hiếp dâm về một tội còn cụ thể tội nào
cần phân biệt một số trường hợp sau:
Nếu người phạm tội hiếp dâm nhiều lần, trong đó chỉ có
một lần nạn nhân chưa đủ 16 tuổi, còn các lần khác nạn nhân đã đủ 16 tuổi thì
cần truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội theo điểm d khoản 2 Điều 112 Bộ
luật hình sự với tình tiết “phạm tội nhiều lần”.
Nếu người phạm tội hiếp dâm nhiều lần, trong đó có từ hai
lần trở lên nạn nhân chưa đủ 16 thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội “Hiếp dâm trẻ em” theo điểm c khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình sự vì có
tình tiết “Phạm tội nhiều lần”.
10. Hiếp dâm nhiều trẻ em ( điểm d
khoản 3 Điều 112 )
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm
tội quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự, chỉ có khác là nạn
nhân trong trường hợp này là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và khung
hình phạt không phải là khoản 2 của điều luật mà là khoản 3. Nếu nạn nhân chưa
đủ 13 thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 112 Bộ
luật hình sự.
11. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ
lệ thương tật từ 61% trở lên ( điểm đ khoản 3 Điều 112)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm
tội quy định tại điểm a khoản 3 Điều 111 Bộ luật hình sự, chỉ có khác là nạn nhân
trong trường hợp này là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân
chưa đủ 13 thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều
112 Bộ luật hình sự.
12. Người phạm tội biết mình nhiễm HIV mà vẫn phạm tội (
điểm e khoản 3 Điều 112)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm
tội quy định tại điểm b khoản 3 Điều 111 Bộ luật hình sự, chỉ có khác là nạn
nhân trong trường hợp này là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn
nhân chưa đủ 13 thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4
Điều 112 Bộ luật hình sự.
13. Hiếp dâm trẻ
em làm nạn nhân chết hoặc tự sát ( điểm g khoản 3 Điều 112)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm
tội quy định tại điểm c khoản 3 Điều 111 Bộ luật hình sự, chỉ có khác là nạn
nhân trong trường hợp này là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn
nhân chưa đủ 13 tuổi thì thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 112 Bộ luật
hình sự .
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp: Hiếp dâm có tổ
chức; nhiều người hiếp một người; phạm tội nhiều lần; đối với nhiều người; gây
tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên; biết mình
nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; làm nạn nhân chết hoặc tự sát thì bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình sự và bị phạt tù từ mười hai
năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. So với khoản 3 Điều 112a Bộ
luật hình sự năm 1985 thì khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn,
nên những hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ
00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 2 Điều 112 Bộ luật
hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.
14. Hiếp dâm trẻ
em dưới 13 tuổi ( khoản 4 Điều 112)
Trường hợp hiếp dâm trẻ em dưới 13 tuổi được luật pháp
quy định như là một trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, không cần hội tụ đủ các
yếu tố cấu thành tội hiếp dâm thông thường, người có hành vi giao cấu với trẻ
em dưới 13 tuổi vẫn bị coi là phạm tội hiếp dâm. Vì vậy, khi Bộ luật hình sự
năm 1985 chưa được sửa đổi, bổ sung cũng đã quy định "mọi trường hợp giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi là phạm tội hiếp
dâm", tức là không cần dấu hiệu “trái
với ý muốn của nạn nhân” như các trường hợp hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi
trở lên. Tinh thần này được quán triệt và khẳng định lại một lần nữa tại khoản
4 Điều 112 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với tội hiếp dâm trẻ em “Mọi
trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm”.
Tuy nhiên, về khung hình phạt không còn nghiêm khắc hơn trước mà quy định người
phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử
hình. Việc quy định này là phù hợp với thực tiẽn xét xử, vì có trường hợp tuy
xét về hành vi thì dã cấu thành tội hiếp dâm, nhưng về hậu quả cũng như các mặt
tác hại khác lại không đáng kể, nếu phạt người phạm tội mức hình phạt hai mươi
năm (mức thấp nhất của khung hình phạt theo khoản 4 Điều 112a Bộ luật hình sự
năm 1985) thì không tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm
tội. Thấy rõ được sự bất hợp lý này, nên Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định
khung hình phạt dài hơn, có mức thấp nhất là mười hai năm. So với khoản 4 Điều
112a Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ
hơn, nên những hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0
giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 2 Điều 112 Bộ
luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.
Việc xác định trường hợp phạm tội này chủ yếu là xác định
tuổi của nạn nhân và việc xác định tuổi của nạn nhân như trên chúng ta đã
nghiên cứu đang là vấn đề cần phải giải thích hoặc hướng dẫn một cách thống
nhất.
Khi áp dụng khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự cũng cần
phải chú ý một số điểm sau :
So với khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình sự thì khoản 4 Điều
112 có khung hình bằng nhau. Nếu chỉ căn cứ vào khung hình phạt dễ cho rằng
hành vi hiếp dâm trẻ em dưới 13 tuổi cũng như hành vi hiếp dâm trẻ em trên 13
tuổi, sẽ dẫn đến sự nhận thức không đúng khi áp dụng khoản 4 Điều 112 Bộ luật
hình sự. Do đó nếu phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 112 Bộ
luật hình sự mà không có các tình tiết quy định tại khoản 2, khoản 3 của Điều
112 Bộ luật hình sự thì người phạm tội có thể chỉ bị phạt từ mười hai năm đến
hai mươi năm tù, nhưng nếu có tình tiết quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 112
Bộ luật hình sự thì có thể bị phạt tù chung thân hoặc tử hình. Vì thế khi đã
xác định người phạm tội hiếp dâm trẻ em thuộc trường hợp quy định tại khoản 4
Điều 112 Bộ luật hình sự thì đồng thời phải xác định người phạm tội có các tình
tiết quy định tại khoản 2 và khoản 3 của Điều 112 không ? trên cơ sở đó mà
quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Nếu người phạm tội hiếp dâm trẻ em
dưới 13 tuổi lại có các tình tiết quy định tại khoản 2, khoản 3 của Điều 112 Bộ
luật hình sự thì chắc chắn mức hình phạt không thể như trường hợp phạm tội
không có tình tiết quy định tại khoản 2, khoản 3.
Người phạm tội hiếp dâm trẻ em còn có thể bị cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm
năm ( khoản 5 Điều 112)
21. TỘI CƯỠNG DÂM (
ĐIỀU 113)
Cưỡng dâm là hành vi của một người dùng mọi thủ đoạn
khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải
miễn cưỡng giao cấu với mình.
A. CÁC DẤU HIỆU
CỦA TỘI PHẠM
1. Về phía người
phạm tội
Nếu ở tội hiếp dâm, người thực hành chỉ có thể là nam
giới còn những người khác trong một vụ án có đồng phạm có thể là nữ giới, thì ở
tội cưỡng dâm người thực hành có thể bao gồm cả nữ giới. Tuy nhiên, thực tiễn
xét xử người phạm tội là nữ giới rất ít gặp mà chủ yếu vẫn là nam giới.
Người phạm tội cưỡng dâm dùng rất nhiều thủ đoạn khác
nhau như : lừa phỉnh, mua chuộc, dụ dỗ, đe doạ hoặc bằng tình cảm, bằng tiền
bạc, có khi chỉ là một lời hứa... tức là người phạm tội không từ một thủ đoạn nào miễn là thực hiện
được ý đồ giao cấu với người bị hại hoặc lợi dụng người bị hại đang ở trong
tình trạng quẫn bách để họ phải miễn cưỡng giao cấu với mình.
Đối với tội cưỡng dâm, hành vi giao cấu với nạn nhân
không chỉ là dấu hiệu khách quan của cấu thành mà nó là dấu hiệu bắt buộc (dấu
hiệu cần và đủ). Nếu
các dấu hiệu khác đã thoả mãn nhưng chưa có việc giao cấu xảy ra, thì chưa cấu
thành tội phạm. Vì vậy đối với tội cưỡng dâm, không có giai đoạn phạm tội chưa
đạt. Ví dụ : Trần Công M là giáo viên Trường trung cấp kỹ thuật Y, M có ý định
giao cấu với chị Vũ Thị H là học viên của trường, nhiều lần M tìm cách tán tỉnh
chị H, nhưng chị H đều làm ngơ. Một lần, M gọi chị H vào phòng mình dụ dỗ mua
chuộc, chị H vẫn không chịu, M liền hăm doạ : “Nếu không đồng ý trong kỳ thi
tốt nghiệp sẽ bị đánh trượt”. Chị H rất lo lắng, nhiều lần định chiều theo ý M,
nhưng chị lại đấu tranh được và quyết định tố cáo hành vi của M. Sau khi thẩm
tra, thấy lời tố cáo của chị H là có căn cứ, nhưng vì M chưa giao cấu được với
chị H, nên không thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với M về tội cưỡng dâm mà
chỉ đề nghị Nhà trường xử lý hành chính đối với M.
2. Về phía người bị hại
Người
bị hại trong vụ án cưỡng dâm cũng có thể là nam giới, nhưng chủ yếu là nữ giới.
Dù là nam hay nữ, thì họ phải là người lệ thuộc vào người phạm tội, nếu không
phải là người bị lệ thuộc thì cũng phải là người đang ở trong tình trạng quẫn
bách.
Người
bị lệ thuộc vào người phạm tội cũng giống như sự lệ thuộc trong các tội “Hành
hạ người khác”, tội “Bức tử” bao gồm sự lệ thuộc về tinh thần cũng như lệ thuộc
về mặt vật chất bắt nguồn từ nhiều quan hệ khác nhau như : cha với con, thầy
với trò, thầy thuốc với bệnh nhân, cha cố với con chiên...
Người
ở trong tình trạng quẫn bách là người tuy không có mối quan hệ lệ thuộc với
người phạm tội, nhưng do nhiều nguyên nhân họ rơi vào trong tình trạng quẫn
bách phải miễn cưỡng giao cấu với ngươì phạm tội, người rơi vào trong tình
trạng này không còn sáng suốt lựa chọn một xử sự bình thường như những người
khác hoặc trong lúc bình thường khác.
Dù
là người bị lệ thuộc vào người phạm tội hay người ở trong tình trạng quẫn bách
thì việc họ giao cấu với người phạm tội là do miễn cưỡng. Sự miễn cưỡng của
người bị hại là ý thức chủ quan của họ, nên trong nhiều trường hợp việc xác
định nó không phải bao giờ cũng dễ dàng. Có người lúc giao cấu họ không hề miễn
cưỡng nhưng sau đó vì một lý do nào đó họ lại tố cáo rằng mình phải miễn cưỡng
giao cấu hoặc ngược lại, lúc giao cấu họ đã miễn cưỡng nhưng sau đó họ lại khai
là không có sự miễn cưỡng. Vì vậy, để xác định người bị hại có miễn cưỡng giao
cấu với người phạm tội hay không cần phải căn cứ vào các tình tiết khách quan
của vụ án mà đặc biệt là mối quan hệ lệ thuộc giữa người bị hại với ngươì phạm
tội, hoàn cảnh lúc xảy ra việc giao cấu. Ví dụ : Hoàng Thị Kim O vay của Trần
Công T 200.000.000đ để làm vốn đi buôn,
nhưng lại bị Phạm Thị L lừa nên không có
khả năng trả nợ cho T; nhiều lần T đến đòi nợ, chị O phải khất lần. Khi biết chị
O không có khả năng trả nợ cho mình, T gạ chị O cho y giao cấu thì sẽ cho chị O
kéo dài thời gian trả nợ mà không tính lãi. Trước hoàn cảnh quẫn bách này, sau
nhiều lần suy nghĩ chị O đã phải miễn cưỡng để cho T giao cấu với mình.
B.
CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1.
Cưỡng dâm một người mà nạn nhân là người đã thành niên (khoản 1 Điều 113)
Đây
là trường hợp phạm tội cưỡng dâm thông thường không có các tình tiết tăng nặng
định khung hình phạt. Người đã thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên, nếu
người phạm tội cưỡng dâm những người này thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo 1 Điều 113 Bộ luật hình sự có khung hình phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
Theo
quy định tại Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự, thì người có hành vi cưỡng dâm
chỉ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu như người bị hại có yêu cầu khởi
tố, nếu đã khởi tố rồi mà trước ngày mở phiên toà, họ lại rút yêu cầu khởi tố
thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp Viện kiểm sát, hoặc Toà án xét
thấy cần thiết vẫn tiến hành tố tụng.
2. Nhiều người cưỡng dâm một người ( điểm a khoản 2 Điều 113)
Nhiều
người cưỡng dâm một người là trường hợp có nhiều người (từ hai người trở lên)
dùng thủ đoạn khiến một người lệ thuộc vào những người này hoặc đang trong tình
trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu.
Trường
hợp nhiều người cưỡng dâm một người trên thực tế rất ít xảy ra, vì một người có
quan hệ lệ thuộc vào nhiều người và nhiều người này giao cấu với một người bị
lệ thuộc vào mình ít khi xảy ra trong thực tiễn, nhưng trường hợp một người
cưỡng dâm nhiều người, trong thực tiễn lại xảy ra nhiều và tình tiết “cưỡng dâm nhiều người” được quy định tại
điểm a khoản 2 Điều 113 Bộ luật hình sự năm 1985 ( điều luật chưa được sửa đổi
bổ sung vào ngày 10-5-1997), nhưng sau khi điều luật này được sửa đổi thì tình
tiết “cưỡng dâm nhiều người” không
được quy định nữa mà thay vào đó là tình tiết “phạm tội nhiều lần”. Tuy nhiên “cưỡng
dâm nhiều lần” với “cưỡng dâm nhiều người” không hoàn toàn
giống nhau. Ví dụ : Một giám đốc Công ty doạ chuyển công tác hoặc buộc thôi
việc để giao cấu với nhiều phụ nữ là nhân viên dưới quyền mình, khi vụ án bị
phát hiện vị giám đốc này đã cưỡng dâm tất cả 12 phụ nữ trong Công ty của y
nhưng mỗi lần chỉ giao cấu với một người, còn trường hợp “cưỡng dâm nhiều lần” người phạm tội
có thể chỉ cưỡng dâm đối với một người nhưng xảy ra từ hai lần trở lên. Tính
chất nguy hiểm của hành vi “cưỡng dâm
nhiều người” xét về mọi mặt bao giờ cũng nghiệm trọng hơn trường hợp cưỡng
dâm một người mà nhiều lần. Nếu cho rằng trường hợp cưỡng dâm nhiều người cũng
nguy hiểm như trường hợp cưỡng dâm nhiều lần đối với một người là không thoả
đáng. Chính vì vậy, Bộ luật hình sự năm 1999 tình tiết "cưỡng dâm nhiều người" lại được quy định là tình tiét
định khung hình phạt ( điểm c khoản 2 Điều 113)
3. Cưỡng dâm nhiều lần
( điểm b khoản 2
Điều 113)
Cũng
như trường hợp phạm tội nhiều lần đối với các tội phạm khác, phạm tội cưỡng dâm
nhiều lần là trường hợp một người đã thực hiện hành vi cưỡng dâm nhiều lần và
mỗi lần cưỡng dâm đều có đủ yếu tố cấu thành tội “cưỡng dâm”, nhưng tất cả các
lần phạm tội đó đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Phạm tội cưỡng dâm
nhiều lần là tất cả những lần cưỡng dâm chỉ đối với một người. Tình tiết phạm
tội này, điểm b khoản 2 Điều 113 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định là "phạm tội nhiều lần", nay điểm b
khoản 2 Điều 113 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định là "cưỡng dâm nhiều lần" nhưng bản chất
không có gì thay đổi, việc quy định như vậy chỉ rõ hơn mà thôi.
4.
Cưỡng dâm nhiều người (
điểm c khoản 2 Điều 113 )
Cưỡng
dâm nhiều người là hành vi của một người dùng mọi thủ đoạn khiến nhiều người lệ
thuộc mình hoặc nhiều người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng
giao cấu. Như trên đã phân tích, tình tiết phạm tội này mới được "tái
lập" nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn xét xử, đồng thời thể hiện được
tính chính xác trong công tác lập pháp của Nhà nước ta. Khi áp dụng tình tiết
phạm tộ này cần chú ý:
Nếu
có nhiều người bị cưỡng dâm, trong đó có người bị cưỡng dâm nhiều lần, thì
người phạm tội bị truy cứu theo khoản 2 Điều 113 với hai tình tiết "cưỡng
dâm nhiều lần" và "cưỡng dâm nhiều người" và hình phạt đối với
người phạm tội phải nặng hơn trường hợp cưỡng dâm chỉ có một tình tiết
"cưỡng dâm nhiều lần" hoặc "cưỡng dâm nhiều người" quy định khoản 2 Điều 113.
5.
Cưỡng dâm có tính chất loạn luận
( điểm d khoản 2 Điều 113)
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp hiếp dâm có tính chất loạn luân
như đối với tội hiếp dâm đã giới thiệu ở trên, nạn nhân bị cưỡng dâm là người
cùng dòng máu trực hệ với người phạm tội (như cha mẹ với con, ông bà với cháu);
giữa anh chị em cùng cha mẹ hoặc anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác
cha.
Pháp
luật coi trường hợp cưỡng dâm có tính chất loạn luân nghiêm trọng hơn trường
hợp cưỡng dâm thông thường là nhằm bảo vệ thuần phong mỹ tục của gia đình, giữ
gìn đạo đức xã hội.
6. Cưỡng dâm làm nạn nhân có thai (điểm đ khoản 3 Điều 113 )
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp làm nạn nhân có thai như các
trường hợp hiếp dâm làm nạn nhân có thai, tức là việc nạn nhân có thai là hậu
quả trực tiếp do hành vi cưỡng dâm của người phạm tội gây ra, nếu cái thai đó
lại không phải kết quả của hành vi cưỡng dâm của người phạm tội thì không thuộc
trường hợp quy định này, do đó các cơ quan tiến hành tố tụng cần xác định nạn
nhân có thai chính là do cưỡng dâm mà có thì người phạm tội mới bị coi là cưỡng
dâm là nạn nhân có thai. Trong thực tế không ít trường hợp tuy có hành vi cưỡng
dâm, nhưng nạn nhân có thai lại không phải do bị cưỡng dâm mà có mà do việc
quan hệ tình dục với ngươì khác rồi nhân việc phát hiện có hành vi cưỡng dâm
nên nạn nhân đã khai là có thai với người phạm tội cưỡng dâm. Vì vậy, các cơ
quan tiến hành tố tụng không chỉ căn cứ vào lời khai của nạn nhân mà phải đánh
giá toàn diện khách quan các tình tiết của vụ án để xác định nạn nhân có thai
là do bị cưỡng dâm hay do quan hệ tình dục với người khác mà có.
7. Cưỡng dâm gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn
nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% ( điểm e khoản 2 Điều 113)
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp hiếp dâm gây tổn hại cho sức khoẻ
của nạn nhân quy định tại điểm h khoản 2 Điều 111, điểm c khoản 2 Điều 112 Bộ
luật hình sự, do đó khi xác định trường hợp phạm tội này, các cơ quan tiến hành
tố tụng cần phải trưng cầu giám định pháp y để xác định hậu quả do hành vi
cưỡng dâm gây tổn hại sức của nạn nhân có tỷ lệ thương tật là bao nhiêu phần
trăm (%). Tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% của nạn nhân là tỏn hại sức khoẻ của
một người, vì vậy nếu trường hợp người phạm tội cưỡng dâm nhiều người, trong đó
mỗi người bị tổn hại sức khoẻ dưới 31% mà tổng tỷ lệ thương tật của nhiều người
trên 31%, thì người phạm tội cũng chỉ bị truy cứu theo điểm b khoản 3 Điều 113
với tình tiết "cưỡng dâm nhiều người" mà không thuộc trường hợp quy
định tại điểm e khoản 2 Điều 113.
8. Người phạm tội là người tái phạm nguy hiểm ( điểm g khoản 2 Điều 113)
Cũng
tương tự như trường hợp tái phạm nguy hiểm khác, người phạm tội cưỡng dâm được
coi là tái phạm nguy hiểm nếu đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng do cố ý,
chưa được xoá án tích mà lại phạm tội cưỡng dâm theo khoản 2 và khoản 3 Điều
113 Bộ luật hình sự hoặc đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội
cưỡng dâm.
Nếu
người phạm tội cưỡng dâm chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 113 Bộ
luật hình sự thì không coi là tái phạm nguy hiểm, vì khoản 1 Điều 113 Bộ luật
hình sự là tội nghiêm trọng.
Người
phạm tội thuộc một trong các trường hợp: Nhiều người cưỡng dâm một người; cưỡng
dâm nhiều lần; cưỡng dâm nhiều người; có tính chất loạn luân ; làm nạn nhân có
thai ; gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đén
60%; tái phạm nguy hiểm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều
113 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ ba năm đến mười năm tù. So với khoản
3 Điều 112a Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình sự năm
1999 nhẹ hơn, nên những hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000
mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 2 Điều
112 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.
9.
Cưỡng dâm gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở
lên ( điểm a
khoản 3 Điều 113)
Trường
hợp phạm tội này tương tự như trường hợp quy định tại điểm e khoản 3 Điều 113
Bộ luật hình sự, cũng như các trường hợp phạm tội gây tổn hại cho sức khoẻ của
nạn nhân, chỉ khác nhau ở mức tỷ lệ thương tật. Cưỡng dâm mà gây tổn hại cho
sức khỏe của nạn nhân có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên là gây tổn hại rất
nặng cho sức khoe của nạn nhân. So với khoản 3 Điều 113 Bộ luật hình sự năm
1985, thì tình tiết này là tình tiết mới, vì khoản 3 Điều 113 Bộ luật hình sự
năm 1985 không quy định trường hợp cưỡng dâm gây tổn hại rất nặng cho sức khoẻ
của nạn nhân, vì vậy tình tiết phạm tội này chỉ áp dụng đối với hành vi cưỡng
dâm xảy ra từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 trở đi.
10.
Biết mình nhiễm HIV mà vẫn phạm tội (điểm b khoản 3 Điều 113)
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm b
khoản 3 Điều 111 và điểm e khoản 3 Điều 112 quy định về tội hiếp dâm và hiếp
dâm trẻ em, chỉ khác nhau ở chỗ, người phạm tội trong trường hợp này là phạm
tội cưỡng dâm chứ không phải hiếp dâm.
11.
Cưỡng dâm làm nạn nhân chết
Cưỡng
dâm làm nạn nhân chết là trường hợp do cưỡng dâm đã gây ra hậu quả nạn nhân bị
chết, tức là cái chết của nạn nhân là hậu quả của hành vi cưỡng dâm, nếu nạn
nhân chết lại do hành vi khác của người phạm tội thì không thuộc trường hợp này
mà tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội cưỡng dâm còn bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội giết người theo Điều 93 Bộ luật hình sự hoặc tội vô ý làm
chết người theo Điều 98 Bộ luật hình sự.
Cưỡng
dâm làm nạn nhân chết thông thường xảy ra trong trường hợp do cương dâm nên làm
nạn nhân có thai, rồi do phá thai nên dẫn đến nạn nhân bị chết, khó có trường
hợp nạn nhân bị chết do trực tiếp hành vi cưỡng dâm gây ra, nếu có thì cũng chỉ
đối với trường hợp cưỡng dâm trẻ em nhưng trường hợp phạm tội cưỡng dâm trẻ em
đã được quy định thành một tội độc lập theo Điều 113 Bộ luật hình sự.
12.
Cưỡng dâm làm nạn nhân tự sát
Người
bị cưỡng dâm cũng có trường hợp vì nhiều lý do khác nhau nên đã tự sát. Tuy
nhiên, khi xác định do bị cưỡng dâm mà nạn nhân tự sát thì người phạm tội mới
bị coi là làm nạn nhân tự sát. Thực tiễn xét sử, có những trường hợp nạn nhân
tự sát là do những lý do trực tiếp khác chứ không phải do bị cưỡng dâm, bị
chồng con, gia đình ruồng bỏ, khinh bỉ, ngược đãi, thậm chí có những hành vi
hành hạ xúc phạm đến nhân phẩm của nạn nhân làm cho nạn nhân chán đời tự sát,
nhưng nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc gia đình nạn nhân ruồng bỏ là do bị cưỡng
dâm thì người phạm tội cưỡng dâm vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về trường hợp làm nạn nhân tự sát. Nếu nạn nhân
tự sát, nhưng nguyên nhân dẫn đến nạn nhân tự sát không liên quan gì đến hành
vi cưỡng dâm của người phạm tội thì không thuộc trường hợp cưỡng dâm làm nạn
nhân tự sát. Ví dụ : Chị H là sinh viên trường đại học bị Đoàn Văn Ph cưỡng dâm
trong lúc chị H đang yêu anh Đinh Thế A, biết chị H bị cưỡng dâm nhưng anh A
vẫn yêu chị H và quyết tâm lấy chị H làm vợ. Ngay từ khi chị H và A yêu nhau,
gia đình chị H đã phản đối muốn gả H cho một người giầu có. Sau khi tốt nghiệp,
bố mẹ chị H bắt chị H về để gả cho người mà gia đình đã hứa, chị H đã viết một
lá thư tuyệt mệnh và uống thuốc tự tử.
Người
phạm tội cưỡng dâm làm nạn nhân tự sát, không nhất thiết nạn nhân phải chết mà
chỉ cần nạn nhân có hành vi tự sát là người phạm tội phải bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo điểm c khoản 3 Điều 113 Bộ luật hình sự.
Cưỡng
dâm thuộc các trường hợp gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương
tật từ 61% trở lên; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; làm nạn nhân chết
hoặc tự sát thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3
Điều 113 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ bảy năm đến mười tám năm tù. So
với khoản 3 Điều 113 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 3 Điều 113 Bộ luật hình
sự năm 1999 nhẹ hơn, nên những hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày
1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản
3 Điều 113 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.
13.
Cưỡng dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đén dưới 18 tuổi ( khoản 4 Điều 113)
Trường
hợp phạm tội này được tách từ tội cưỡng dâm người chưa thành niên quy định tại
Điều 113a Bộ luật hình sự năm 1985, còn tội cưỡng dâm người chưa thành niên quy
định tại Điều 112a được đỏi thành tội cưỡng dâm trẻ em.
Cưỡng
dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đén dưới 18 tuổi được xác định bởi tuổi
thật của nạn nhân mà không phụ thuộc vào nhận thức của người phạm tội, căn cứ
dể xác định tuổi của nạn nhân là giấy khai sinh, trường hợp không có giấy khai
sinh thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải căn cứ và các tài liệu có liên quan
đến tuổi của nạn nhân để xác định tuổi thật của nạn nhân. trường hợp đã làm hết
cách mà không xác định được tuổi thật của nạn nhân, thì áp dụng phương pháp có
lợi cho người phạm tội như đã giới thiệu ở tội hiếp dâm trẻ em quy định tại
Điều 112 Bộ luật hình sự.
Cưỡng dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi
đén dưới 18 tuổi, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4
Điều 113 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù.
Nếu
phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 của
Điều 113, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự và bị xử phạt theo
khung hình phạt của khoản 2 hoặc khoản 3 của Điều 113 Bộ luật hình sự. Đây là
quy định có tính chất chỉ dẫn. Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng khi đã xác
định người phạm tội Cưỡng dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đén dưới 18
tuổi, thì phải áp dụng khoản 4 Điều 113 Bộ luật hình sự và nếu thuộc một trong
các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 của điều 113 thì phải xác định
đó là trường hợp phạm tội quay định tại điểm nào của khoản nào để áp dụng hình
phạt của khoản nào đối với người phạm tội.
Ngoài
hình phạt chính, người phạm tội cưỡng dâm theo quy định tại Điều 113 còn có thể
bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm
đến năm năm quy định tại khoản 5 Điều 113 Bộ luật hình sự.
22.
TỘI CƯỠNG DÂM TRẺ EM (
ĐIỀU 114)
Cưỡng
dâm trẻ em là hành vi của một người dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi lệ thuộc mình hoặc đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn
cưỡng giao cấu với mình.
A. CÁC DẤU HIỆU CỦA TỘI PHẠM
Tội
cưỡng dâm người chưa thành niên là tội phạm được tách ra từ trường hợp phạm tội
quy định tại điểm a khoản 2 Điều 113a Bộ luật hình sự năm 1985 do yêu cầu của
việc đấu tranh với những hành vi lạm dụng tình dục đối với trẻ em đang xảy ra
rất nghiêm trọng ở nước ta.
Về
cơ bản các dấu hiệu của tội cưỡng dâm trẻ em cũng tương tự như đối với tội
cưỡng dâm quy định tại Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân
bị cưỡng dâm ở tội này là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dươí 16 tuổi, nếu nạn nhân
dưới 13 tuổi thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm
trẻ em quy định tại Điều 112 Bộ luật hình sự.
Cũng
tương tự như đối với các trường hợp hiếp dâm trẻ em, hiếp dâm người chưa thành
niên, trường hợp cưỡng dâm trẻ em, các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ cần xác
định tuổi thật của nạn nhân là trẻ em từ 13 đến dưới 16 tuổi mà không phụ thuộc
vào ý thức chủ quan của người phạm tội có biết hay không biết người mà mình
cưỡng dâm là trẻ em.
B.
CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Cưỡng dâm một người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
tuổi ( khoản 1 Điều 114)
Người
chưa thành niên dưới 16 tuổi được gọi là trẻ em, vì vậy cưỡng dâm người dưới 16
tuổi gọi là cưỡng dâm trẻ em. Lẽ ra trường hợp phạm tội này chỉ cần quy định
cưỡng dâm trẻ em là đủ. Tuy nhiên, nếu cưỡng dâm trẻ em dưới 13 tuổi thì lại bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm nên cần phải quy định cụ thể trẻ
em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi để khỏi nhầm với trường hợp trẻ em dưới 13
tuổi bị giao cấu mà Bộ luật hình sự quy định là tội hiếp dâm. Để xác định
trường hợp phạm tội này, các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ cần xác định tuổi của
nạn nhân sau khi đã xác định đủ các yếu tố cấu thành tội cưỡng dâm.
Cưỡng
dâm một người là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo khoản 1 Điều 114 có khung hình phạt từ năm năm đén mười năm tù.
3. Cưỡng dâm trẻ em có tính chất loạn luân ( điểm a khoản 2 Điều 114)
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội cưỡng dâm cótính chất
loạn luân quy định tại điểm d khoản 2 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở
chỗ nạn nhân trong trường hợp này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu
nạn nhân dưới 13 tuổi thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội hiếp dâm trẻ em quy định tại điểm a khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự.
4.
Cưỡng dâm trẻ em làm nạn nhân có thai ( điểm b khoản 2 Điều 114)
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội cưỡng dâm quy định tại
điểm đ khoản 2 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân trong
trường hợp này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân dưới 13
tuổi thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ
em quy định tại điểm b khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự.
5.
Cưỡng dâm gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến
60% ( điểm c khoản 2 Điều 114)
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội cưỡng dâm quy định tại
điểm e khoản 2 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân trong
trường hợp này là người từ đủ 13 tuổi dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân dưới 13 tuổi
thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em
quy định tại điểm c khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự.
6. Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy
hiểm ( điểm d khoản 2 Điều 114)
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội cưỡng dâm quy định tại
điểm g khoản 2 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân trong
trường hợp này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân dưới 13
tuổi thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ
em quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự .
Người
phạm tội thuộc một trong các trường hợp: Có tính chất loạn luân; làm nạn nhân
có thai ; gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến
60% ; tái phạm nguy hiểm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều
114 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm tù. So với
khoản 2 Điều 113a Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 114 Bộ luật hình sự
năm 1999 có khung hình phạt nặng hơn nên chỉ áp dụng đối với hành vi phạm tội
kể từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 trở đi .
7.
Nhiều người cưỡng dâm một người ( điểm a khoản 3 Điều 114)
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội cưỡng dâm quy định tại
điểm a khoản 2 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân trong
trường hợp này là người từ đủ 13 đến dưới 18 tuổi, nếu nạn nhân lại là người
dưới 13 tuổi người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm
trẻ em quy định taị khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự.
8.
Phạm tội cưỡng dâm trẻ em nhiều lần( điểm b khoản 3 Điều 114)
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội cưỡng dâm quy định tại
điểm b khoản 2 Điều 113 Bộ luật hình sự chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân trong
trường hợp này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân lại dưới
13 tuổi thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm
trẻ em quy định tại khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự và nếu nạn nhân trên 16
tuổi thì thuộc trường hợp cưỡng dâm người chưa thành niên quy định tại đoạn hai
khoản 4 Điều 113 Bộ luật hình sự .
Khi
xác định tình tiết phạm tội này cần chú ý: Tất cả những lần cưỡng dâm, nạn nhân
đều ở độ tuổi từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi, nếu có hai lần cưỡng dâm, nhưng chỉ có
một lần nạn nhân ở độ tuổi đủ 13 đến dưới 16 còn một lần nạn nhân trên 16 tuổi
thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội: tội cưỡng dâm
người chưa thành niên (khoản 4 Điều 113 ) và tội cưỡng dâm trẻ em ( khoản 1
Điều 114); nếu có một lần nạn nhân chưa đén 13 tuổi thì người phạm tội cũng bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội: tội hiếp dâm trẻ em ( khoản 4 Điều
112) và tội cưỡng dâm trẻ em ( khoản 1 Điều 114).
9.
Cưỡng dâm nhiều trẻ em (
điểm c khoản 4 Điều 114)
Trường
hợp phạm tội này cũng tường tự như trường hợp phạm tội cưỡng dâm nhiều người
quy định tại điểm c khoản 2 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ, các nạn
nhân trong trường hợp này đều là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn
nhân dưới 13 tuổi thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
hiếp dâm trẻ em quy định tại Điều 112 Bộ luật hình sự.
Khi
xác dịnh tình tiết phạm tội này, các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ cần xác dịnh
tuổi thật của người bị hại mà không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của người
phạm tội.
10.
Cưỡng dâm gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở
lên ( điểm d khoản 3 Điều 114)
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội "cưỡng dâm gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn
nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên quy định tại điểm a khoản 3 Điều
113 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ, nạn nhân trong trường hợp này là người từ
đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì người phạm tội bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em quy định tại điểm đ khoản 3
Điều 112 Bộ luật hình sự.
11.
Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn cưỡng dâm trẻ em ( điểm đ khoản 3 Điều 114)
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp "biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội" quy định tại
điểm b khoản 3 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ, nạn nhân trong trường
hợp này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì
người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em quy định
tại điểm e khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình sự.
12.
Cưỡng dâm làm nạn nhân chết hoặc tự sát ( điểm e khoản 3 Điều 114)
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp cưỡng dâm làm nạn nhân chết hoặc
tự sát quy ddịnh tại điểm c khoản 3 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ
nạn nhân trong trường hợp này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn
nhân lại là người dưới 13 tuổi thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội hiếp dâm trẻ em quy định tại điểm g khoản 4 Điều 112 Bộ luật
hình sự.
Người
phạm tội thuộc một trong các trường hợp : Nhiều người cưỡng dâm một người ;
Phạm tội nhiều lần ; gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật
từ 61% trở lên; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; phạm tội làm nạn nhân
chết hoặc tự sát, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản
3 Điều 114 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc
tù chung thân.
Trừ
trường hợp "phạm tội làm nạn nhân chết hoặc tự sát", còn các trường
hợp phạm tội khác, so với khoản 3 Điều 113a Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản
3 Điều 114 là tội phạm nặng hơn, vì khoản 3 Điều 114 Bộ luật hình sự năm 1999
là điều khoản được nhập hai khoản ( khoản 3 và khoản 4 Điều 113a). Vì vậy, nếu
hành vi phạm tội của người phạm tội được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000
mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 3 Điều
113a Bộ luật hình sự năm 1985 đối với người phạm tội ( trừ trường hợp phạm tội
làm nạn nhân chết hoặc tự sát được áp dụng khoản 3 Điều 114 Bộ luật hình sự năm
1999 đối với người phạm tội)
23.
TỘI GIAO CẤU VỚI TRẺ EM (
ĐIỀU 115)
Giao
cấu với trẻ em là hành vi của một người đã thành niên giao cấu với người từ đủ
13 tuổi đến dưới 16 tuổi không trái với ý muốn của nạn nhân.
A.
CÁC DẤU HIỆU CỦA TỘI PHẠM
1.
Về phía người phạm tội
Người
phạm tội phải là người đã thành niên, tức là người đã đủ 18 tuổi trở lên. Chủ
thể của tội phạm này có thể là nữ giới, nhưng đa số là nam giới.
Việc
giao cấu với người dưới 16 là hoàn toàn có sự đồng tình của hai người không bên
nào ép buộc bên nào. Sự thoả thuận này có trường hợp là mối tình yêu đương giữa
hai người, nhất là ở một số vùng nông thôn, tệ tảo hôn còn phổ biến, cũng có
trường hợp do cuộc sống, do hoàn cảnh éo le của một số em gái chưa đủ 16 tuổi
đã bán dâm cho khách làng chơi để kiếm tiền.
Việc
trừng trị hành vi giao cấu với người dưới 16 tuổi bằng luật hình sự của Nhà
nước ta cũng chủ yếu nhằm bảo vệ sự phát triển bình thường về mặt tình dục đối
với người chưa đủ 16 tuổi.
2.
Đối với người bị hại
Người
bị hại trong vụ án giao cấu với người dưới 16 tuổi là người có độ tuổi từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi, có thể là nam giới nhưng chủ yếu là nữ giới.
Việc
để người phạm tội giao cấu là hoàn toàn có sự tự nguyên, không hề có sự cưỡng
bức hay ép buộc nào. Mặc dù họ tự nguyện và có nhiều trường hợp họ yêu cầu
không xử lý đối với người phạm tội, nhưng yêu cầu này của họ không được chấp
nhận vì họ là đối tượng mà Nhà nước buộc phải bảo vệ.
Chỉ
coi là tội giao cấu với trẻ em khi người phạm tội và người bị hại đã thực hiện
việc giao cấu, nếu chỉ có những hành vi có tính chất dâm ô mà chưa thực hiện
việc giao cấu thì không cấu thành tội giao cấu với trẻ em mà tuỳ trường hợp có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội dâm ô trẻ em quy định tại Điều 116
Bộ luật hình sự.
B.
CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1.
Giao cấu với một người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi ( khoản 1 Điều 115)
Trường
hợp người phạm tội chỉ giao cấu với một người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 115 Bộ luật hình sự có
khung hình phạt từ một năm đến năm năm tù. Khi quyết định hình phạt đối với
trường hợp phạm tội này, cần phải xem xét một cách toàn diện đầy đủ các tình
tiết của vụ án, nhân thân người phạm tội, đặc biệt là mối quan hệ giữa người bị
hại với người phạm tội. Thông qua việc giải quyết vụ án các cơ quan tiến hành
tố tụng cần giáo dục không chỉ người phạm tội mà cần giáo dục ngay cả đối với
người bị hại để họ nhận thức được trách nhiệm của mình đối với bản thân và xã
hội.
2.
Phạm tội nhiều lần (
điểm a khoản 2 Điều 115)
Phạm
tội nhiều lần trong trường hợp này là giao cấu với một trẻ em từ hai lần trở
lên. Khi xác định tình tiết phạm tội này cần chú ý: Tất cả các lần giao cấu,
người phạm tội đã đủ 18 tuổi và người bị hại ở độ tuổi từ đủ 13 đến dưới 16
tuổi, nếu có hai lần giao cấu nhưng trong đó coa một lần người phạm tội chưa đủ
18 tuổi hoặc người bị hại đã đủ 16 tuổi thì không coi là phạm tội nhiều lần và
người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 115 Bộ
luật hình sự. Nếu trong các lần giao cấu mà có một lần người bị hại dưới 13
tuổi thì người phạm tội phải bị truy cứu về hai tội: tội hiếp dâm trẻ em và tội
giao cấu với trẻ em.
3.
Đối với nhiều người (
điểm b khoản 2 Điều 115)
Phạm
tội đối với nhiều người trong trường hợp này là giao cấu với từ hai trẻ em trở
lên và tất cả người bị hại đều ở độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu có
hai người bị hại, trong đó có một người đủ 16 tuổi thì người phạm tội chỉ bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 115 Bộ luật hình sự. Trường hợp
nếu có một người dưới 13 tuổi khi bị giao cấu thì người phạm tội bị truy cứu
trách nhiệm hình sự hai tội: tội giao cấu với trẻ em và tội hiếp dâm trẻ em.
Trường hợp có nhiều người bị giao cấu, trong dó có người bị giao cấu từ hai lần
trở lên thì người phạm tội thuộc hai trường hợp: phạm tội nhiều lần và đối với
nhiều người.
4. Giao cấu với trẻ em có tính chất loạn luân ( điểm c khoản 2 Điều 115)
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp hiếp dâm có tính chất loạn
luân, cưỡng dâm có tính chất loạn luân, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này
giữa nạn nhân với người phạm tội có sự thoả thuận, đồng tình với nhau khi giao
cấu. Việc xử lý nghiêm trường hợp giao cấu với trẻ em có tính chất loạn luân là
nhằm bảo vệ giống nòi, bảo vệ sự phát triển bình thường của các em, bảo vệ
thuần phong mỹ tục của gia đình và xã hội.
5. Giao cấu với trẻ em làm nạn nhân có thai ( điểm d khoản 2 Điều 115)
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp làm nạn nhân có thai trong các
trường hợp đối với tội hiếp dâm, tội cưỡng dâm, chỉ khác ở chỗ trong trường hợp
phạm tội này nạn nhân đã đồng tình để người phạm tội giao cấu.
Khi
xác định ttình tiết phạm tội này cần chú ý: Chỉ khi nào xác định người bị hại
có thai do chính hành vi giao cấu của người phạm tội làm cho nạn nhân có thai
và khi có thai, người bị hại ở độ tuổi từ đủ 13 đến dưới 16. Nếu người bị hại
có thai do kết quả của một lần giao cấu với người khác hoặc tuy có thai với
người phạm tội nhưng do giao cấu nhièu lần trong đó có lần người bị hại đã đủ
16 tuổi và cái thai đó là kết quả của lần giao cấu khi người bị hại đã tròn 16
tuổi, thì không thuộc trường hợp phạm tội này.
6.
Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% ( điểm đ khoản 2 Điều 115)
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ lệ thương
tật từ 31% đến 60% đối với hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm và việc xác định tình
trạng sức khoẻ của nạn nhân trên cơ sở giám định thương tật của Hội đồng giám
định pháp y, chỉ khác các trường hợp trên là người bị hại trong trường hợp này
đồng tình cho người phạm tội giao cấu. Đây không phải là tình tiết định khung
mới vì khoản 2 Điều 114 Bộ luật hình sự năm 1985 đã quy định tình tiết
"gây tổn hại nặng cho sức khoe của nạn nhân" và theo các thông tư,
nghị quyết hướng dẫn thì tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% là thương tích nặng
hặc tổn hại nặng đến sức khoẻ.
Người
phạm tội giao cấu với trẻ em thuộc một trong các trường hợp: Phạm tội nhiều
lần; đối với nhiều người; có tính chất loạn luân; làm nạn nhân có thai; gây tổn
hại đến sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% thì bị truy
cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 115 Bộ luật hình sự có khung hình
phạt từ ba năm đến mười năm tù. So
với khoản 2 Điều 114 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 115 là tội nhẹ
hơn, nên được áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày
1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý (trừ trường hợp
đối với nhiều người, vì đây là tình tiết định khung mới quy định)
7.
Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên ( điểm a khoản 3 Điều 115)
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ lệ thương
tật từ 61% trở lên đối với hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm và việc xác định tình
trạng sức khoẻ của nạn nhân trên cơ sở giám định thương tật của Hội đồng giám
định pháp y, chỉ khác các trường hợp trên là người bị hại trong trường hợp này
đồng tình cho người phạm tội giao cấu. Vì khoản 3 Điều 115 Bộ luật hình sự năm
1985 không quy định gây tổn hại rất nặng cho sức khoẻ của nạn nhân, nên phải
coi trường hợp phạm tội này là tình tiết định khung mới. Do đó chỉ áp dụng đối
với hành vi phạm tội được thực hiện từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 trở đi, nếu hành
vi phạm tội thực trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới
bị phát hiện thì áp dụng điểm d khoản 2 Điều 114 Bộ luật hình sự năm 1985 đối
với người phạm tội với tình tiết "gây tổn hại nặng cho sức khoe của nạn
nhân".
8.
Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội ( điểm b khoản 3 Điều 115)
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn
hiếp dâm, vẫn cưỡng dâm quy định tại điểm b khoản 3 Điều 111; điểm c khoản 3
Điều 112; điểm b khoản 3 Điều 113; điểm đ khoản 3 Điều 114, chỉ khác các trường
hợp trên ở chõ người bị hại trong trường hợp này là trẻ em và đồng tình để
người phạm tội giao cấu.
Đây
là tình tiết định khung hình phạt mới được quy định đối với tội giao cấu với
trẻ em, nên chỉ áp dụng đối với hành vi phạm tội được thực hiện từ 0 giờ 00
ngày 1-7-2000 trở đi.
Phạm
tội thuộc một trong các trường hợp: gây tổn hại
cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ lệ thương tật từ 61% trở lên; biết
mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo khoản 3 Điều 115 có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm tù. So với khoản 3 Điều 114 Bộ luật hình
sự năm 1985 thì khoản 3 Điều 115 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm nhẹ hơn,
nhưng lại không được áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00
ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý, vì cả hai
tình tiết định khung hình phạt này đều là tình tiết mới. Còn khoản 3 Điều 114
chỉ quy định trường hợp có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 điều này nhưng
tình tiết này Bộ luật hình sự năm 1999 đã không quy định ở tội phạm này cũng
như tất cả các tội khác trong Bộ luật hình sự.
24.
TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI TRẺ EM (
ĐIỀU 116)
Dâm
ô đối với trẻ em là hành vi của người đã thành niên dùng mọi thủ đoạn có tính
chất dâm dục đối với người dưới 16 tuổi nhằm thoả mãn dục vọng của mình nhưng
không có ý định giao cấu với nạn nhân
Đây
là tội phạm được quy định theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
hình sự ngày 10-5-1997 và được quy định tại Điều 202b Bộ luật hình sự năm 1985
thuộc mục B Chương VIII ( các tội phạm xâm phạm trật tự công cộng). Tuy nhiên,
việc xác định tội phạm này xâm phạm đến trận tự công cộng là không chính xác vì
nếu chỉ có hành vi dâm giữa những người đã thành niên với nhau ở hững nơi công
cộng thì mới xâm phạm đén trật tự công cộng, còn dâm ô đối với trẻ em thì đã
xâm phạm đến một khách thể quan trọng hơn đó là sự phát triển bình thường về
tình dục của trẻ em, nên coi hành vi dâm ô trẻ em là hành vi xâm phạm nhân phẩm
của con người và quy định trong Chương các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
nhân phẩm, danh dự con người là hoàn toàn hợp lý.
A.
CÁC DẤU HIỆU CỦA TỘI PHẠM
1.
Đối với người phạm tội
Chủ
thể của tội phạm này có thể là nam hoặc nữ, nhưng chủ yếu là nam và nhất thiết
phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên. So với tội dâm ô đối với trẻ em quy định
tại Điều 202b Bộ luật hình sự năm 1985 thì chủ thể của tội phạm này có sửa đổi,
bổ sung. Vì Điều 202b Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định người nào có hành
vi dâm ô, còn Điều 116 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định cụ thể "người nào đã thành niên", tức
là phạm vi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội này bị thu hẹp
hơn Điều 202b Bộ luật hình sự năm 1985.
Hành
vi dâm ô được thể hiện đa dạng như: sờ mó, hôn hít bộ phận sinh dục của nạn
nhân; dùng bộ phận sinh dục của mình chà xát với bộ phận sinh dục của nạn nhân
hoặc bắt nạn nhân sờ mó, hôn hít bộ phận sinh dục của mình nhằm thoả mãn dục
vọng, nhưng không có ý định giao cấu với nạn nhân. Nếu có ý định giao cấu với
nạn nhân nhưng không giao cấu được thì không phải là hành vi dâm ô mà tuỳ từng
trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp
dâm trẻ em, tội cưỡng dâm trẻ em hoặc tội giao cấu với trẻ em.
2. Đối với người bị hại
Người
bị hại phải là người dưới 16 tuổi, có thể là nữ hoặc là nam, nhưng chủ yếu là
trẻ em nữ.
Nạn
nhân có thể bị người phạm tội cưỡng ép buộc phải thực hiện hành vi dâm ô, nhưng
cũng có thể đồng tình với người phạm tội để người phạm tội thực hiện hành vi
dâm ô hoặc tự nguyện thực hiện hành vi dâm ô với người phạm tội.
B.
CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1.
Dâm ô đối với một người (
khoản 1 Điều 116)
Phạm
tội dâm ô một lần đối với một trẻ em không thuộc một trong các tường hợp quy
định tại khoản 2 Điều 116 Bộ luật hình sự thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo khoản 1 Điều 116 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ sáu tháng đến ba
năm tù. So với khonả 1 Điều 202b Bộ luật hình sự năm 1985 tuy khung hình phạt
không có gì thay đổi nhưng dấu hiệu về chủ thể so với Bộ luật hình sự năm 1985
bị thu hẹp hơn, nên có thẻ coi khoản 1 Điều 116 là quy định có lợi cho người
phạm tội. Vì vậy, nếu có người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi dâm ô trước 0 giờ
00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mơí bị phát hiện thì không bị
coi là tội phạm.
2.
Phạm tội nhiều lần (
điểm a khoản 2 Điều 116)
Phạm
tội dâm ô trẻ em nhiều lần là có từ hai lần trở lên có hành vi
dâm ô đối với một trẻ em. Nếu chỉ có hai lần dâm ô, trong đó có một lần người
phạm tội chưa đủ 18 tuổi hoặc có một lần người bị hại đủ 16 tuổi thì không bị
coi là dâm ô nhiều lần.
3.
Đối với nhiều trẻ em (
điểm b khoản 2 Điều 116)
Phạm
tội dâm ô đối với nhiều trẻ em là trường hợp một người có hành vi dâm ô đối với
từ hai trẻ em trở lên. Nếu có hai trẻ em bị dâm ô, nhưng có một trẻ em bị dâm ô
khi người phạm tội chưa đủ 18 tuổi thì người phạm tội chỉ bị coi là dâm ô một
người và bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 116 Bộ luật hình sự.
4.
Đối với trẻ em mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh ( điểm c khoản 2 Điều 116)
Dâm
ô đối với trẻ em mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh
là trường hợp giữa người phạm tội và người bị hại có mối quan hệ, trong đó
người phạm tôi có nghĩa vụ đối với người bị hại. Nghĩa vụ này xuất phát từ quan
hệ huyết thống như bố mẹ đối với con cái, quan hệ giáo dục như thầy giáo đối
với học sinh, quan hệ chữa bệnh như thầy thuốc đối với bệnh nhân v.v... Nếu chỉ
xét riêng về mói quan hệ giã người phạm tội với người bị hại thì trương hợp
phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm d khoản 2
Điều 112, chỉ khác ở chỗ, hành vi của người phạm tội trong trường hợp này là
hành vi dâm ô chứ không phải là hành vi
hiếp dâm.
5.
Gây hậu quả nghiêm trọng (
điểm d khoản 2 Điều 116)
Hậu
quả nghiêm trọng do hành vi dâm ô gây ra không giống hậu quả nghiêm trọng do
hành vi phạm tội khác gây ra. Trường hợp dâm ô gây hậu quả nghiêm trọng cần
đánh giá một cách toàn diện khách quan tất cả các tình tiết của vụ án, tren cơ
sở đó mà đánh giá có gây ra hậu quả nghiêm trọng hay không. Ví dụ: Do người phạm
tội thực hiện hành vi dâm ô với trẻ em bị bắt quả tang, vì xấu hổ nên người bị
hại đã bỏ nhà đi lang thang, bố mẹ và gia đình nạn nhân phải mất nhiều tiền
bạc, thời gian mới tìm được người bị hại, nhưng không dám đến trường, không dám
gặp bạn bè hoặc do hành vi dâm ô của người phạm tội mà những người thân của
người phạm tội ghen tuông, đánh đạp nạn nhân gây thương tích hoặc gây tổn hại
đến sức khoẻ có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 61%. Tất nhiên trong trường hợp này
ngươid gây thương tích cho nạn nhân phải bị truy cứ trách nhiệm hình sự theo
khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự, còn người có hành vi dâm ô bị coi là gây hậu
quả nghiêm trọng.
6.
Tái phạm nguy hiểm (
điểm đ khoản 2 Điều 116)
Người
phạm tội dâm ô thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là người đã tái phạm, chưa
được xoá án tích mà còn phạm tội dâm ô, bởi lẽ khoản 1 Điều 116 là tội phạm ít
nghiêm trọng còn khoản 2 của Điều 116 là tội phạm nghiêm trọng nên sẽ không có
trường hợp tái phạm quy định tại điểm a khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Trường
hợp nếu người phạm tội dâm ô gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm
trọng thì đã bị truy cứu theo khoản 3 Điều 116 Bộ luật hình sự, nếu có xác định
tái phạm nguy hiểm cũng chỉ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt trong
phạm vi khung hình phạt theo khoản 3 Điều 116 chứ không có ý nghĩa xác định
khung hình phạt. Tuy nhiên nếu thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm cũng như các
tình tiét khác thuộc khoản 2 của Điều 116 thì các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn
phải xác định để làm căn cứ khi quyết định hình phạt.
Phạm
tội thuộc một trong các trường hợp: phạm tội nhiều lần; đối với nhiều trẻ em;
đói với trẻ em mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
gây hậu quả nghiêm trọng; tái phạm nguy hiểm thì người phạm tội bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 116 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ
ba năm đến bảy năm tù. Khi quyết dịnh hình phạt nếu các tình tiết khác của vụ
án như nhau thì người phạm tội có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 116
sẽ bị phạt nặng người phạm tội chỉ có một tình tiết quy định tại khoản 2 Điều
116 Bộ luật hình sự.
8.
Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng ( khoản 3 Điều 116)
Dâm
ô gây hậu quả rất nghiêm trọng là trường hợp dâm ô rất nhiều trẻ em, hoặc dâm ô
tập trung nhiều tình tiết là dấu hiệu định khung hình phạt theo khoản 2 Điều
116, hoặc dẫn đến gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người bị
hại mà tỷ lệ thương tật từ 60% trở lên, gây dư luận xấu trong nhân dân, ảnh
hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục.
Việc
xác định dâm ô gây hậu quả rất nghiêm trọng cũng như viẹc xác định dâm ô gây
hậu quả nghiêm trọng cần phải đánh giá một cách khách quan, toàn diện tất cả
các tình tiết của vụ án, căn cứ vào tình hình xã hội nơi vụ án xảy ra và những
tác hại cho xã hội do hành vi dâm ô gây ra.
9.
Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
(
khoản 3 Điều 116)
Dâm
ô trẻ em gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là trường hợp người phạm tội đã có
hành vi dâm ô đối với rất nhiều trẻ em, do hành vi dâm ô mà dẫn đến nhiều trẻ
em có lối sống trụy lạc hoặc phạm tội tập trung nhiều tình tiết tăng nặng định
khung quy định trong điều luật, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng hoặc rất
nghiêm trọng khác cho xác hội, bị dư luận quần chúng nhân dân lên án. Cũng như
việc xác định hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, khi xác định gây hậu quả
đặc biệt nghiêm trọng, cần chú ý đánh giá một cách toàn diện các tình tiết của
vụ án những hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.
Phạm
tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, người phạm tội bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 116 Bộ luật hình sự. Do bị truy
cứu cùng chung một khung hình phạt cho
cả hai trường hợp phạm tội mà mức độ nguy hiểm khác nhau, nên khi quyết định
hình phạt, Toà án căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội,
nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự để quyết định một mức hình phạt cho tương xứng với hành vi phạm
tội và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.ếu các tình khác của vụ án
như nhau, thì người phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội gây hậu
quả rất nghiêm trọng.
Ngoài
hình phạt chính, người phạm tội dâm ô đối với trẻ em còn có thể bị cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nhề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm
theo quy định tại khoản 4 Điều 116 Bộ luật hình sự.
Khuyến Mãi








