Hôm nay :

Hotline: 0120 220 1889 - 0902 108 162

ĐINH VĂN QUẾ
THẠC SĨ LUẬT HỌC – TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO


BÌNH LUẬN BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999
PHẦN CÁC TỘI PHẠM

CHƯƠNG XII
CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH MẠNG, SỨC KHOẺ,
NHÂN PHẨM, DANH DỰ CỦA CON NGƯỜI



26. TỘI CỐ Ý TRUYỀN HIV CHO NGƯỜI KHÁC ( ĐIỀU 118)
Xem các tội từ Điều 93 -  104 tại đây
Xem các tội từ Điều 105 - 111 tại đây
Xem các tội từ Điều 112 - 117 tại đây


Cố ý truyền HIV cho người khác là hành vi của một người không bị nhiễm HIV nhưng đã cố ý truyền HIV từ người này sang người khác.

A. CÁC DÂU HIỆU CỦA TỘI PHẠM
Điều luật chỉ quy định người nào cố ý truyền HIV cho người khác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 117 của Bộ luật hình sự thì thuộc trường hợp phạm tội quy định tại Điều 118 của Bộ luật hình sự, nhưng xem xét một cách cụ thể chúng ta thấy giữa tội lây truyền HIV cho người khác với tội truyền HIV cho người khác không chỉ khác nhau về tư cách chủ thể mà còn khác nhau ở cả hành vi phạm tội. Những điểm khác nhau đó là :
- Nếu ở Điều 117 có tên tội danh là "lây truyền..." thì ở Điều 118 tên tội danh là "truyền", không có từ "lây" chứng tỏ chỉ có người bị nhiễm HIV thì mới lây cho người khác được ( lây bệnh cho người khác); "lây truyền" tức là truyền bệnh từ cơ thể của mình sang cơ thể của người khác, còn "truyền" không bao hàm nội dung của khái niệm "lây" nó chỉ có nghĩa là truyền tải vi rút HIV từ cơ thể người có bệnh sang người chưa bị nhiễm bệnh.
- Hành vi truyền HIV cho người khác nguy hiểm hơn nhiều so với hành vi lây truyền HIV cho người khác nên nhà làm luật coi hành vi truyền HIV là hành vi phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, còn hành vi lây truyền HIV nhà làm luật chỉ coi là hành vi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng.
 - Nếu ở Điều 117 chủ thể của tội phạm nhất thiết phải là người bị nhiễm HIV, thì ở Điều 118 chủ thể của tội phạm tội có thể là người bị nhiễm HIV nhưng chủ yếu là người không bị nhiễm HIV, nếu là người bị nhiễm HIV thì vi rút HIV mà họ truyền cho người khác không phải vi rút HIV trong cơ thể của họ mà vi rút từ cơ thể của người khác. Đây là dấu hiệu cơ bản để phân biệt giữa hai tội này và cũng vị vậy mà điều luật chỉ dùng động từ "truyền" mà không dùng động từ "lây truyền". Theo từ điển tiếng Việt thì "lây" là truyền từ cơ thể này sang cơ thể khác, nên  khi nói lây HIV cho người khác cũng có nghĩa là truyền HIV từ cơ thể mình sang cơ thể người khác rồi.
Người bị hại (nạn nhân) là người đã bị truyền HIV là người có hành vi truyền HIV cho họ đã cấu thành tội phạm này rồi, không cần biết người bị hại có bị nhiễm HIV hay không. Nếu người bị hại không bị nhiễm HIV thì hành vi phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt.

B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

1. Cố ý truyền HIV cho một người và không thuọc trường hợp quy định tại từ điểm a đến điểm đ khoản 2 Điều 118 Bộ luật hình sự ( khoản 1 Điều 118)
Đây là trường hợp chỉ có một người bị người khác truyền HIV, người bị truyền HIV có thể bị nhiễm HIV do bị truyền những cũng có thể không bị nhiễm, nhưng người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 118 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ ba năm đến mười năm tù, là tội phạm rất nghiêm trọng. Do đó, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ cũng chỉ nên áp dụng mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt không nên áp dụng dưới mức thấp nhất, đặc biệt không nên chuyển sang một hình phạt khác nhẹ hơn.

2. Phạm tội có tổ chức ( điểm a khoản 2 Điều 118)
Cũng giống như trường hợp phạm tội có tổ chức trong các tội phạm khác,  là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện hành vi cố ý truyền HIV vào cơ thể người khác, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu.
Khi xác định trường hợp phạm tội này cần chú ý phân biệt với trường hợp đồng phạm thông thường có từ hai hoặc nhiều người cùng cố ý truyền HIV cho người khác nhưng không có sự bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau; không có phân công vai trò của mỗi người, không vạch kế hoạch và không có người cầm đầu.

3. Phạm tội đối với nhiều người ( điểm b khoản 2 Điều 118)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội qua định tại điểm a khoản 2 Điều 117 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ người phạm tội trong trường hợp này không phải là người lây truyền HIV trong cơ thể mình đã bị nhiễm cho người khác mà là truyền HIV của người khác cho nhiều người khác. Ví dụ: A biết B bị nhiễm HIV. Vì là con nghiện nên nhiều lần A xin tiền của C và D mua ma tuý để tiêm chích nhưng C và D không cho, A tìm cách trả thù C và D. Một hôm A đang chích ma tuý cho B thì C và D đến. B thấy C và D đến và cũng là bạn tiêm chích ma tuý với B nhiều lần, nên B nói với C và D: "có chích thì bảo A nó chích cho, ma tuý tao mua còn đấy". Nghe B nói vậy, C và D đồng ý, lợi dụng cơ hội này A đã dùng kim tiêm và xi lanh đã chích ma tuý cho B để chích ma tuý cho C và D với ý định làm cho C và D bị nhiễm HIV từ cơ thể của B.

4. Phạm tội đối với người chưa thành niên ( điẻm c khoản 2 Điều 118)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm b khoản 2 Điều 117 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ người phạm tội trong trường hợp này không phải là người lây truyền HIV trong cơ thể mình đã bị nhiễm cho người khác mà là truyền HIV của người khác cho người chưa thành niên. Ví dụ: H và K đều mới 17 tuổi là học sinh lớp 11, nhưng cả hai đều nghiện ma tuý và đều yêu T bạn học cùng lớp. H biết anh trai mình là B đã bị nhiễm HIV vì tiêm chích ma tuý. Một hôm H dang chích ma tuý cho B thì K đến nhà chơi, vì muốn trả thù K nên H nói với K: "có làm một tý không ?". Đang lên cơn nghiện nên K đồng ý để cho H dùng kim và xi lanh vừa chích ma tuý cho anh mình để chích ma tuý cho K với mong muốn K sẽ bị nhiễm HIV như anh mình.

5. Phạm tội đối với người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân  ( điểm d khoản 2 Điều 118)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm c khoản 2 Điều 117 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ người phạm tội trong trường hợp này không phải là người lây truyền HIV trong cơ thể mình đã bị nhiễm cho người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ vủa nạn nhân mà là truyền HIV của người khác cho người người thi hành công vụ.

6. Lợi dụng nghề nghiệp để phạm tội ( điểm đ khoản 2 Điều 118)
Lợi dụng nghề nghiệp để cố ý truyền HIV cho người khác là trường hợp người phạm tội đã lợi dụng nghề nghiệp của mình mà nghề đó có khả năng, điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện hành vi cố ý truyền HIV cho người khác như lợi dụng việc chữa bệnh cho nạn nhân để truyền HIV cho người mà mình chữa bệnh. Ví dụ: Vũ Thị C là y tá Trung tâm cai nghiện. C biết H là người bị nhiễm HIV. Do có mâu thuẫn với K là người yêu cũ cũng bị đưa vào trung tâm cai nghiện, nên C có ý định trả thù K. Một lần Vũ Thị C được phân công trực, thấy K và H đều bị lên cơn sốt, theo chỉ định của bác sỹ điều trị, K và H đều phải tiêm thuốc giảm sốt. Lợi dụng cơ hội này, Vũ Thị C đã dùng kim tiêm và xi lanh tiêm thuốc cho H đẻ tiêm thuốc cho K với ý định để K cũng bị nhiễm HIV.
Phạm tội thuộc các trường hợp: có tổ chức; đối với nhiều người; đối với người chưa thành niên; đối với người thi hành công vụ oặc vì lý do công vụ của nạn nhân; lợi dụng nghề nghiệp để phạm tội thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 118 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ mười năm đến hai mươi năm tù hoặc tù chung thân. đây là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nên khi xét xử Toà án cân nhắc tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự để áp dụng một mức hình phạt cụ thể hco tương xứng với tội phạm do bị cáo gây ra. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, chưa gây ra hậu quả ( người bị truyền HIV chưa bị nhiễm HIV) thì có thể áp dụng mức hình phạt dưới mức mười năm tù. nếu người phạm tội tập trung nhièu tình tiết là dấu hiệu định khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 118 Bộ luật hình sự lại có nhiều tình tiét tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, hậu quả gây ra làm người bị truyên HIV nhiễm HIV và không có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì phải áp dụng hình phạt cao trong khung hình phạt ( hai mươi năm hoặc tù chung thân).
Ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị cấm đảmm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định từ một năm đến năm năm the khoản 3 Điều 118 Bộ luật hình sự.

27. TỘI MUA BÁN PHỤ NỮ ( ĐIỀU 119)

Mua bán phụ nữ là hành vi coi người phụ nữ như một món hàng để trao đổi lấy tiền hoặc lợi ích vật chất khác
So với tội mua bán phụ nữ quy định tại Điều 115 Bộ luật hình sự năm 1985 về cơ bản không có gì mới, chỉ bổ sung thêm một số tình tiết là yếu tố định khung hình phạt và quy định hình phạt bổ sung ngay trong cùng một điều luật.

 A. CÁC DẤU HIỆU CỦA TỘI PHẠM

1. Đối với người phạm tội
Người phạm tội có thể là người mua, có thể là người bán hoặc có thể họ vừa là người mua, vừa là người bán phụ nữ. Thực tiễn xét xử trong những năm vừa qua, chúng tội thường gặp người phạm tội là người dùng mọi thủ đoạn lừa phỉnh phụ nữ để đem ra nước ngoài (chủ yếu là Trung Quốc) bán cho người nước ngoài làm vợ. Việc mua bán phụ nữ xảy ra ở trong nước, nếu có cũng chủ yếu là sự móc nối của những người trong các khâu của quá trình mua bán phụ nữ và cuối cùng là đưa ra nước ngoài.
Quan niệm mua và bán phụ nữ cũng không hoàn toàn giống như mua và bán những hàng hoá khác hoặc mua bán nô lệ như một số nước ở thời kỳ trung cổ, do đó trong một số trường hợp nhìn hình thức bên ngoài chúng ta không thấy được đó là hành vi mua bán phụ nữ, thậm chí người phụ nữ bị đem bán còn cảm ơn người đã mua bán mình. Ví dụ: Chị Phạm Thị H đã 30 tuổi nhưng chưa có chồng, Nguyễn Thị M là người thường đi lên Lạng Sơn buôn bán nên biết được ở Lạng Sơn có người tìm phụ nữ có hoàn cảnh éo le để đưa sang Trung Quốc bán. M đã về gặp chị H và kể cho chị H nghe là sang Trung Quốc lấy chống có cuộc sống sung sướng, nếu chị H đồng ý thì M sẽ giúp đỡ. Vì hoàn cảnh như vậy nên chị H đã đồng ý và theo M lên Lạng Sơn để sangTrung Quốc, bằng việc làm này thị M đã được đồng bọn chia cho 1.000.000 đồng. Sau một năm, chị H viết thư về gia đình báo tin là đã có chồng và không quên gởi lời cám ơn M đã giúp chị.
Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay, các doanh nghiệp tư nhân của người Việt Nam cũng như của người nước ngoài tại Việt nam có sử dụng các cán bộ khoa học hoặc công nhân có tay nghề cao là phụ nữ. Những người này được trả lương cao thậm chí rất cao và không ít trường hợp những "ông chủ" muốn lôi kéo họ về làm việc cho mình nên đã "mua hoặc bán" như kiểu chuyển nhượng. Việc chuyển nhượng này không phải là hành vi phạm tội mua bán phụ nữ.
Người phạm tội phải nhận thức được hành vi của mình là hành vi mua bán phụ nữ thì mới là hành vi phạm tội, nếu họ không nhận thức được hành vi của mình là hành vi mua bán phụ nữ thì không phải là tội phạm. Ví dụ: Chị K đã ly hôn với chồng muốn sang Trung Quốc để lấy chồng vì chị nghe nói phụ nữ Việt Nam sang bên đó lấy chồng dễ, lại có cuộc sống sung sướng. Chị K nhờ chị L là người thường xuyên đi buôn bán ở Quảng Ninh xem có cách nào giúp chị, chị L đồng ý và dẫn chị K ra Quảng Ninh. Tại đây, chị L giới thiệu với Trần Văn Q về hoàn cảnh của chị K, Trần Văn Q đã đưa chị K đến nhà Hoàng Công T (T là đối tượng thường xuyên đưa phụ nữ sang Trung Quốc bán), T đã trả cho Q 500.000 đồng, Q đêm về cho chị L 100.000 đồng và dặn lần sau có ai muốn sang Trung Quốc lấy chồng thì cứ đưa ra đây. Mặc dù chị L có được Q cho tiền nhưng chị L không biét việc làm của mình là hành vi giúp sức cho kẻ khác mua bán phụ nữ, nên hành vi của chị L không phải là hành vi phạm tội.
Vì là buôn bán nên dấu hiệu thu lợi cũng là một dấu hiệu quan trọng, nhưng nó không phải là dấu hiệu bắt buộc, việc người phạm tội có thu lợi hay không, điều đó không có ý nghĩa về mặt định tội, nếu có thì cũng chỉ có ý nghĩa về việc áp dụng hình phạt (lượng hình).
Hậu quả của hành vi mua bán phụ nữ là người phụ nữ đó đã bị mua, bị bán. Nhưng nếu người phạm tội đã thực hiện các hành vi nhằm mua, nhằm bán, nhưng việc mua bán chưa xảy ra thì cũng không vì thế mà cho rằng chưa phạm tội mua bán phụ nữ mà trường hợp phạm tội này là phạm tội chưa đạt.

2. Đối với người bị hại
Người bị hại trong vụ án mua bán phụ nữ là người phụ nữ từ 16 tuổi trở lên bị mua, bị bán. Nếu người người bị hại là phụ nữ dưới 16 tuổi thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mau bán phụ nữ mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trẻ em theo Điều 120 Bộ luật hình sự. 
Hiện nay có một tình trạng khá phổ biến là trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng thường xác định người bị hại trong vụ án mua bán phụ nữ lại là thân nhân của họ như: bố, mẹ, anh, em của người phụ nữ bị mua, bị bán, nhất là đối với các trường hợp người bị hại bị đưa ra nước ngoài. Việc xác định thân nhân của người bị hại là bị hại trong vụ án mua bán phụ nữ rõ ràng là không đúng với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, nếu không xác định thân nhân của người bị hại tham gia tố tụng với tư cách như người bị hại thì có không ít những trường hợp không bảo đảm quyền lợi của các đương sự nhất là đối với trường hợp người bị hại bị đưa ra nước ngoài.
Việc xác định thân nhân của người phụ nữ bị mua, bị bán tham gia tố tụng với tư cách là người bị hại rõ ràng là không đúng với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử một số nơi đã cho họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện của người bị hại, nhưng ngay cả trong trường hợp này cũng cần phải có hướng dẫn cụ thể, bởi lẽ theo quy định tại Điều 39 Bộ luật tố tụng hình sự thì chỉ trong trường hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp của họ mới tham gia tố tụng thay cho họ còn những phụ nữ bị bán ra nước ngoài chưa hẳn họ đã bị chết.
Trong khi chưa có hướng dẫn hoặc sửa đổi bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự, theo chúng tôi nếu người bị hại trong vụ án mua bán phụ nữ không xác định được địa chỉ hoặc tuy xác định được địa chỉ nhưng không thể triêu tập họ được thì chỉ cho thân nhân của họ tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và chỉ giải quyết những vấn đề có liên quan đến thân nhân của người bị hại. Ví dụ: Những khoản thiệt hại vật chất do phải đi tìm người bị hại hoặc do người bị hại bị bán ra nước ngoài không nhận được tin tức mà thân nhân của người bị hại tổn thất về tinh thần.
Người bị hại có thể biết mình bị mua, bị bán nhưng cũng có thể không biết mình bị mua, bị bán. Thậm chí có người còn tự nguyện để người khác mua bán, thì người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán phụ nữ.

B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

1. Mua bán một phụ nữ và không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 119 Bộ luật hình sự ( khoản 1 Điều 119)
Là trường hợp một người hoặc nhiều người mua bán một phụ nữ mà không thuộc trường hợp phạm tội: Mua bán phụ nữ vì mục đích mại dâm; phạm tội có tổ chức; phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; để đưa ra nước ngoài; mua bán nhiều người; mua bán nhiều lần, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản1 Điều 119 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù.

2. Mua bán phụ nữ vì mục đích mại dâm ( điểm a khoản 2 Điều 119)
Mua bán phụ nữ vì mục đích mại dâm là trường hợp sử dụng người phụ nữ bị mua, bị bán vào việc hoạt động mại dâm. Thông thường, người phạm tội trong trường hợp này còn bị truy cứu thêm tội môi giới mại dâm hoặc tội chứa mại dâm, nhưng cũng có thể chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán phụ nữ vì mục đích mại dâm nếu người phạm tội chỉ biết người phụ nữ mà mình mua, mình bán sẽ được sử dụng vào mục đích mại dâm.
Đây là tình tiết thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội, do đó các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải có căn cứ xác định người phạm tội biết người phụ nữ mà họ mua bán là để sử dụng vào mục đích mại dâm, nếu không có căn cứ xác định người phạm tội biết mua bán phụ nữ vì mục đích mại dâm thì không thuộc trường hợp phạm tội này.
Tình tiết mua bán phụ nữ vì mục đích mại dâm là tình tiết mới được quy định tại khoản 2 Điều 119 Bộ luật hình sự năm 1999, do đó những hành vi phạm tội mua bán phụ nữ vì mục đích mại dâm thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 119 Bộ luật hình sự.

3. Mua bán phụ nữ có tổ chức ( điểm b khoản 2 Điều 119)
Cũng giống như trường hợp phạm tội có tổ chức, phạm tội mua bán phụ nữ có tổ chức là trường hợp nhiều người tham gia, trong đó có người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy có người trực tiếp thực hiện tội phạm, có người xúi giục, hoặc giúp sức, nhưng tất cả đều chung một mục đích là làm thế nào để mua được, để bán được phụ nữ. Mua bán phụ nữ có tổ chức là trường hợp phạm tội nguy hiểm hơn trường hợp phạm tội không có tổ chức, vì phạm tội có tổ chức do có sự phận công, cấu kết chặt chẽ giữa những người thực hiện tội phạm nên chúng dễ dàng thực hiện việc mua bán phụ nữ và cũng dễ dàng che giấu hành vi phạm tội của mình.

4. Mua bán phụ nữ có tính chất chuyên nghiệp ( điểm c khoản 2 Điều 119)
Phạm tội mua bán phụ nữ có tính chất chuyên nghiệp là người phạm tội lấy việc mua bán phụ nữ là nguồn sống chính cho mình.
Bộ luật hình sự năm 1985 chưa coi trường hợp phạm tội này là tình tiết tăng nặng hoặc là tình tiết định khung hình phạt. Nhưng qua thực tiễn xét xử, có một số tội phạm, trong đó có tội mua bán phụ nữ, người phạm tội đã lấy việc phạm tội là nguồn thu nhập chính của bản thân, nên Quốc hội đã bổ sung tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" là tình tiết định khung tăng nặng của một số tội phạm, trong đó có tội mua bán phụ nữ. Việc nhà làm luật coi trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là tình tiết tăng nặng là yếu tố định khung hình phạt là một yêu cầu cần thiết do thực tiễn xét xử đặt ra.
Khi áp dụng tình tiết này, cần lưu ý rằng khái niệm chuyên nghiệp được hiểu ở đây không đồng nghĩa với khái niệm nghề nghiệp của một người, vì không thể coi phạm tội là một nghề kiếm sống, tính chất chuyên nghiệp của hành vi phạm tội thể hiện ở chỗ tội phạm đó được lặp đi, lặp lại nhiều lần mà người phạm tội coi việc phạm tội đó là phương tiện kiếm sống. Ví dụ: Hoàng Văn N là một kẻ sống lang thang không nghề nghiệp, thường tụ tập một số người cùng cảnh ngộ như mình chuyên tìm phụ nữ để đưa ra nước ngoài bán để lấy tiền. Tuy nhiên, không phải hành vi phạm tội nào cứ lặp đi, lặp lại nhiều lần đều coi là có tính chất chuyên nghiệp, mà chỉ những hành vi mà người phạm tội coi đó là phương tiện kiếm sống thì mới là có tính chất chuyên nghiệp.
Tình tiết mua bán phụ nữ có tính chất chuyên nghiệp là tình tiết mới được quy định tại khoản 2 Điều 119 Bộ luật hình sự năm 1999, do đó những hành vi phạm tội mua bán phụ nữ có tính chất chuyên nghiệp thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 119 Bộ luật hình sự.

5. Mua bán phụ nữ để đưa ra nước ngoài ( điểm d khoản 2 Điều 119)
Hành vi mua bán phụ nữ để đưa ra nước ngoài được coi là hành vi phạm tội nghiêm trọng. Thực tiễn trong những năm vừa qua hầu hết các vụ mua bán phụ nữ là để đưa ra nước ngoài và cũng chủ yếu là đưa sang Trung Quốc.
Chỉ cần chứng mình người phạm tội có ý định đưa người phụ nữ bị mua bán ra nước ngoài là thuộc trường hợp phạm tội này rồi, chứ không cần phải đưa người phụ nữ bị mua bán ra được nước ngoài trót lọt mới thuộc trường hợp phạm tội này.
Cần phân biệt trường hợp phạm tội này với trường hợp tổ chức, cưỡng ép phụ nữ trón đi nước ngoài có thu tiền, vàng. Nếu tiền, vàng mà người phạm tội thu được là của người phụ nữ trốn đi nước ngoài thì không phải là mua bán phụ nữ để đưa ra nước ngoài, vì tiền hoặc vàng mà người phạm tội có không phải của người khác mà của chính người phụ nữ bị đưa ra nước ngoài.

6. Mua bán nhiều phụ nữ ( điểm đ khoản 2 Điều 119)
Đây là trường hợp có từ hai người phụ nữ trở lên bị người phạm tội mua bán, trong đó có thể có người bị đưa ra nước ngoài, có người không bị đưa ra nước ngoài hoặc tất cả bị đưa ra nước ngoài. Nếu có người bị đưa ra nước ngoài thì người phạm tội vừa mua bán nhiều người vừa để đưa ra nước ngoài (hai tình tiết định khung).
Mua bán nhiều phụ nữ là trường hợp một lần người phạm tội mua bán nhiều phụ nữ, nếu người phạm tội mua bán nhiều phụ nữ nhưng mỗi lần chỉ mua bán một phụ nữ thì không thuộc trường hợp phạm tội này mà thuộc trường hợp "mua bán nhiều lần" quy định tại điểm e khoản 2 Điều 119 Bộ luật hình sự)

7. Mua bán nhiều lần (điểm e khoản 2 Điều 119)
Mua bán nhiều lần là trường hợp người phạm nhiều lần thực hiện hành vi mua bán phụ nữ và mỗi lần hành vi mua bán đã cấu thành tội mua bán phụ nữ.
Mua bán nhiều lần, có thể mỗi lần mua bán một người phụ nữ, nhưng cũng có thể trong các lần mua bán đó có lần mua bán nhiều người, nếu có lần mua bán nhiều người thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm đ và điểm e khản 2 Điều 119 Bộ luật hình sự với hai tình tiết định khung là " mua bán nhiều người và mua bán nhiều lần".
Trường hợp, chỉ có một phụ nữ bị bán hoặc bị mua nhưng người phạm tội đã mua bán nhiều lần đối với cùng một phụ nữ thì cũng bị coi là mua bán nhiều lần
Người phạm tội mua bán phụ nữ trong các trường hợp: Mua bán phụ nữ vì mục đích thương mại; phạm tội có tổ chức; để đưa ra nước ngoài; mua bán nhiều người hoặc mua bán nhiều lần thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 119 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ năm năm đến hai mươi năm tù.
Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định tình tiết tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung hình phạt đối với tội mua bán phụ nữ nữa, nên hành vi phạm tội được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm và không thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 119 Bộ luật hình sự năm 1999 thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 119 Bộ luật hình sự.
 Khi quyết định hình phạt cụ thể, toà án cần xem xét một cách toàn diện, nếu phạm tội có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 119 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị mức hình phạm cao hơn người phạm tội có một tình tiết, nếu các tình tiết của vụ án tương tự như nhau.
Hiện nay, tình trạng mua bán phụ nữ xảy ra khá nghiêm trọng, nhất là tình trạng đưa nhiều phụ nữ ra nước ngoài để bán, có trường hợp đặc biệt nghiêm trọng như sau khi bị bán, có chị em viết thư về gia đình kể lại cuộc sống cơ cực ở xứ người, bị mua đi bán lại qua nhiều lần, có chị không chịu nổi phải tự sát; bọn mua bán phụ nữ tổ chức thành đường dây móc nối với người nước ngoài và đưa rất nhiều phụ nữ ra nước ngoài bán thu lợi bất chính, dư luận xã hội đòi hỏi phải nghiêm trị những tên cầm đầu, chỉ huy đồng bọn. Nhưng mức hình phạt tối đa của tội phạm này cao nhất cũng chỉ có hai mươi năm tù. Mặt khác, việc bỏ tình tiết tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung hình phạt trong tội mua bán phụ nữ là không thoả đáng, vì tội mua bán phụ nữ là một tội nguy hiểm và dư luận đang quan tâm, người phạm tội mà thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm phải bị phạt nặng hơn trường hợp không thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm mới thoả đáng. Ngoài ra, qua thực tiễn xét xử chúng tôi còn thấy trường hợp ua bán phụ nữ chưa thành niên cũng là trường hợp lẽ ra phải áp dụng khoản 2 Điều 119 Bộ luật hình sự đối với người phạm tội nhưng Bộ luật hình sự năm 1999 cũng không quy định tình tiết này là tình tiết định khung hình phạt. Hy vọng rằng, khi có điều kiện hình phạt tối đa của tội phạm này sẽ được sửa đổi bổ sung theo hương nghiêm khắc hơn.
Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đén năm năm theo quy định tại khoản 3 Điều 119 Bộ luật hình sự.

28. TỘI MUA BÁN, ĐÁNH TRÁO HOẶC CHIẾM ĐOẠT TRẺ EM (ĐIỀU 120)
Đây là tội phạm bao gồm nhiều hành vi phạm tội độc lập với nhau nhưng cùng xâm phạm đến một đối tượng, đó là trẻ em. Loại tội phạm này cũng tương tự nhưột só tội phạm khác quy định trong Bộ luật hình sự, nhà làm luật quy định nhiều hành vi phạm tội tương tự với nhau về tính chất mức đọ nguy hiểm cho xã hội trong cùng một điều luật, nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm. Thực tiễn xét xử cho thấy nhiều vụ án, người phạm tội vừa có hành vi chiếm đoạt, vừa có hành vi mua bán, lại vừa có hành vi đánh tráo trẻ em, nếu tách các hành vi đó ra để truy cứu trách nhiệm hình sự về từng tội phạm riêng thì cũng không thoả đáng, nên nhà làm luật quy định chung trong cùng một điều luật để tuỳ từng trường hợp cụ thể, các cơ quan tiến hành tố tụng vận dụng cho phù hợp.
Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em là tội phạm trước đây được quy định tại Điều 149 Bộ luật hình sự năm 1985 thuộc Chương các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình và các tội phạm đối với người chưa thành niên, với tên tội danh là "tội bắt trộm, mua bán hoặc đánh tráo trẻ em". Nay được đưa về chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người với tên tội danh là "tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em" là hoàn toàn chính xác về kỹ thuật lập pháp và thực tiễn xét xử. Vì, tội phạm này đích thực xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người mà người bị xâm phạm là trẻ em. Nếu trước đây chỉ quy định hành vi bắt trộm trẻ em, nhưng thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp người phạm tội không bắt trộm mà dùng nhiều thủ đoạn, thậm chí dùng cả vũ lực để bắt trẻ em, nên nhà làm luật thay từ bắt trộm trẻ em thành từ chiếm đoạt trẻ em là hoàn toàn chính xác.

A. CÁC DẤU HIỆU CỦA TỘI PHẠM

1. Đối với người phạm tội
Theo điều văn của điều luật thì "người nào mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em dưới bất kỳ hình thức nào" đều bị coi là tội phạm. Quy định này cần hiểu là:
- Mua bán trẻ em là hành vi coi trẻ em như một món hàng để trao đổi lấy tiền hoặc lợi ích vật chất khác. Như vậy, hành vi mua bán trẻ em cũng giống như hành vi mua bán phụ nữ. Tuy nhiên, mục đích của việc mua bán trẻ em có những trường hợp xuất phát từ tình cảm. Ví dụ: Vì không có con nên vợ chồng anh D chị K đã mua một bé gái về làm con nuôi hoặc vì phong tục tập quán như: Do không có con trai, nên vợ chồng anh T chị N đã mua một bé trai về làm con nuôi đẻ có người nỗi dõi tổ tiên. Có trường hợp lại do mê tín dị đoan cho rằng phải nuôi một bé trai thì vợ chồng mới sinh được con trai, nên vợ chồng anh B chị H đã mua một bé trai về nuôi để hy vọng mình sẽ sinh được con trai. v.v... chứ không hoàn toàn mang tính thương mại thuần tuý. Cho dùvới động cơ, mục đích nào thì hành vi mua bán trẻ em cũng đều bị pháp luật cấm và người có hành vi này vẫn bị coi là tội phạm.
- Đánh tráo trẻ em là dùng trẻ em này để đổi lấy một trẻ em khác theo ý muốn của mình. Việc đánh tráo này thường xảy ra trong các nhà hộ sinh, khi đứa trẻ sinh ra ngoài ý muốn của cha mẹ chúng như: mong muốn có con trai thì lại sinh ra con gái hoặc ngược lại. Hành vi đánh tráo có thể do chính bố mẹ đứa trẻ thực hiện nhưng cũng có thể do thầy thuốc hoặc nhân viên y tế trong Bệnh viện hoặc nhà hộ sinh thực hiện hoặc do người khác thực hiện.
- Chiếm đoạt trẻ em dưới bất kỳ hình thức nào là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực, dùng thủ đoạn gian dối, lén lút, công nhiên hoặc thủ đoạn khác để chiếm đoạt trẻ em. Chỉ có hình vi chiếm đoạt nhà làm luật mới quy định dưới bất kỳ hình thức nào, còn hành vi mua bán và hành vi đánh tráo không thể quy định mua bán hoặc đánh tráo dưới bất kỳ hình thức nào. Chiếm đoạt dưới bất kỳ hình thức nào là để phân biệt với trường hợp trước đây quy định bắt trộm trẻ em chỉ mới nói lên hình thức lén lút, còn thực tế có nhiều vụ án người phạm tội không chỉ bắt trộm mà còn dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực, dùng thủ đoạn gian dối... để bắt đứa trẻ.
Khi xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng cần căn cứ vào hành vi phạm tội cụ thể của người phạm tội để xác định tội danh đối với họ. Nếu người phạm tội chỉ có hành vi mua bán thì tội danh của họ là tội "mua bán trẻ em", nếu hành vi của người phạm tội là hành vi chiếm đoạt thì định tội là "chiếm đoạt trẻ em", nếu hành vi của người phạm tội là hành vi chiếm đoạt thì định tội là "chiếm đoạt trẻ em".
Trường hợp người phạm tội có hai hành vi hoặc cả ba hành vi quy định trong điều luật thì tuỳ từng trường hợp có thể định tội " mua bán và đánh tráo trẻ em "hoặc" mua bán, đánh tráo và chiếm đoạt trẻ em", không nên định tội  "mua bán hoặc chiếm đoạt trẻ em" vì định tội như vậy, không biết người phạm tội có hành vi nào.
Trường hợp người phạm tội mua bán một trẻ em và chiếm đoạt một trẻ em khác thì truy cứu người phạm tội về hai tội danh khác nhau: tội mua bán trẻ em và  tội chiếm đoạt trẻ em và áp dụng Điều 50 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt như trong trường hợp một người phạm nhiều tội.

2. Đối với người bị hại
Người bị hại là người dưới 16 tuổi. Tuổi của người bị hại là một tình tiết thuộc yếu tố khách quan không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của người phạm tội; chỉ cần xác định người bị hại là người dưới 16 tuổi mà người phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt là phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em rồi.
Nói chung đối với trường hợp trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, người phạm tội thường có hành vi mua bán, nhất là đối với những trẻ em gái, người phạm tội thường có hành vi mua bán, đối với trẻ em dưới 13 tuổi người phạm tội thường có hành vi mua bán để giao cho người khác, nhất là người nước ngoài làm con nuôi, đối với các trẻ em mới đẻ người phạm tội thường có hành vi chiếm đoạt, đánh tráo nhằm thoả mãn nhu cầu của mình hoặc của người khác.
Nếu trẻ em bị chiếm đoạt bằng hình thức bắt cóc làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự hình sự về tội bắt cóc nhằm chiếm doạt tài sản quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự mà không bị truy cứu về tội này.

B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

1. Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt một trẻ em và không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự ( khoản 2 Điều 120)
Đây là trường hợp phạm tội không có các tình tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự và người phạm tội bị truy cứ trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 120 có khung hình phạt từ ba năm đến đến mười năm tù, là tội phạm rất nghiêm trọng, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, thì Toà án có thể áp dụng mức hình phạt ba năm tù, trường hợp áp dụng hình phạt dưới ba năm tù hoặc chuyển sang hình phạt khác nhẹ hơn phải hết sức thận trọng và là cá biệt.

2. Phạm tội có tổ chức ( điểm a khoản 2 Điều 120)
Cũng như trường hợp phạm tội có tổ chức khác, mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em có tổ chức là trường hợp nhiều người tham gia, trong đó có người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy có người trực tiếp thực hiện tội phạm, có người xúi giục, hoặc giúp sức, nhưng tất cả đều chung một mục đích là làm thế nào để mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt được trẻ em. Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em có tổ chức là trường hợp phạm tội nguy hiểm hơn trường hợp phạm tội không có tổ chức, vì phạm tội có tổ chức do có sự phận công, cấu kết chặt chẽ giữa những người thực hiện tội phạm nên chúng dễ dàng thực hiện việc mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em và cũng dễ dàng che giấu hành vi phạm tội của mình.

3. Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp ( điểm b khoản 2 Điều 120)
Cũng giốn như trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp khác, phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt được trẻ em có tính chất chuyên nghiệp là người phạm tội lấy việc mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt được trẻ em là nguồn sống chính cho mình.
Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là tình tiết thuộc đặc điẻm cá nhân người phạm tội, có thể có ở người phạm tội này mà không có ở người phạm tội khác. Trong vụ án co đồng phạm hoặc phạm tội có tổ chức có thể chỉ có một hoặc một số người thuộc trường hợp có tính chất chuyên nghiệp, chứ không phải tất cả những người đồng phạm đều phải chịu chung tình tiết có tính chất chuyên nghiệp với người phạm tội có tình tiết này.

4. Phạm tội vì động cơ đê hèn ( điểm c khoản 2 Điều 120)
 Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em vì động cơ đê hèn cũng tương tự như trường hợp phạm tội vì động cơ đê hèn khác, chỉ khác ở chỗ, sự hèn hạ của người phạm tội lại không trực tiếp xâm phạm đến thể xác của người định trả thù mà thông qua hành mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt con em của người muốn trả thù, làm cho tinh thần của người mà người phạm tội muốn trả thù bị suy sụp. Ví dụ: Chỉ vì chị H không đồng ý kết hôn với T, nên T đã bắt con của chị H giấu ở một nơi rồi giả vờ tìm kiếm để gây cảm tình với chị H, để chị H đồng ý kết hôn với T. So với Điều 149 Bộ luật hình sự năm 1985 thì tình tiết này là tình tiết định khung tăng nặng mới được quy định, nên không áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.

5. Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt nhiều trẻ em ( điểm d khoản  Điều 120)
Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt nhiều trẻ em là trường hợp một người hoặc nhiều người một lần hoặc nhiều lần cộng lại đã mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt từ hai trẻ em trở lên. Do điều luật không quy định tình tiết "phạm tội nhiều lần" như đối với một số tội phạm khác nên cần phải hiều mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt nhiều trẻ em bao gồm cả trường hợp một lần và trường hợp nhiều lần, nhưng số lượng trẻ em bị mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt từ hai trẻ em trở lên là người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự. Khi áp dụng tình tiết này cần chú ý:
- Nếu một người mua bán một trẻ em và đánh tráo một trẻ em thì người phạm tội chỉ bị truy cứu về tội " mua bán, đánh tráo trẻ em" với tình tiết " mua bán, đánh tráo nhiều trẻ em;
- Nếu mua bán một trẻ em, đánh tráo một trẻ em và chiếm đoạt một trẻ em thì người phạm tội cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự nhưng tội danh phải ghi là "mua bán, đánh tráo và chiếm đoạt trẻ em";
- Nếu mua bán nhiều lần và mỗi lần một trẻ em thì người phạm tội cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự với tình tiết " mua bán nhiều trẻ em";
- Nếu mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt nhiều lần, nhưng chỉ có một trẻ em bị mua bán, đánh tráo hoặc bị chiếm đoạt thì người phạm tội chỉ bị truy cứu theo khoản 1 Điều 120 Bộ luật hình sự.

6. Để đưa ra nước ngoài ( điểm đ khoản 2 Điều 120)
Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em để đưa ra nước ngoài là trường hợp trước, trong hoặc sau khi mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt  trẻ em người phạm tội có ý định đưa đứa trẻ đó ra nước ngoài. Nếu đứa trẻ đó chưa bị đưa ra nước ngoài, nhưng nếu có căn cứ xác định người phạm tội có ý định đưa đứa trẻ ra nước ngoài, thìnpt vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm đ khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự với tình tiết "để đưa ra nước ngoài".
Mục đích của việc đưa đứa trẻ ra nước ngoài làm gì, người phạm tội có thể biết và cũng có thể không biết (không buộc người phạm tội phải biết), nhưng nếu người phạm tội biết đưa đứa trẻ ra nước ngoài để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo hoặc vào mục đích mại dâm thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm e hoặc điểm g khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự.

7. Để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo ( điẻm e khoản 2 Điều 120)
 ua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo là trường hợp sử dụng đứa trẻ bị mua bán, bị đánh tráo, bị chiếm đoạt vào mục đích trái với nhân đạo như: sử dụng đứa trẻ vào việc trộm cắp, lừa đảo, lao động cực nhọc để lấy tiền hoặc sử dụng đứa trẻ vào những mục đích tàn ác khác. So với Điều 149 Bộ luật hình sự năm 1985 thì tình tiết này là tình tiết định khung tăng nặng mới được quy định, nên không áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.

8. Để sử dụng vào mục đích mại dâm (điểm g khoản 2 Điều 120)
Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em để sử dụng vào mục đích mại dâm là trường hợp sử dụng đứa trẻ bị mua bán, bị đánh tráo, bị chiếm đoạt vào việc mại dâm như: Mua các em gái về buộc phải bán dâm, bán các em gái cho các ổ mại dâm. Nếu người phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em để sử dụng vào việc chứa mại dâm hoặc môi giới mại dâm thì còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chứa mại dâm theo Điều 254  hoặc tội môi giới mại dâm theo Điều 255 Bộ luật hình sự. So với Điều 149 Bộ luật hình sự năm 1985 thì tình tiết này cũng là tình tiết định khung tăng nặng mới được quy định, nên không áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.

9. Người phạm tội là người thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm (điểm h khoản 2 Điều 120)
Cũng tường tự như các trường hợp tái phạm nguy hiểm khác, người phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là người đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em hoặc đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em.
Vì tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em là tội phạm rất nghiêm trọng ( khoản 1 Điều 120) là tội đặc biệt nghiêm trọng ( khoản 2 Điều 120). Do đó, nếu người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích hoặc đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em thì  người phạm tội theo khoản nào của Điều 120 cũng thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, nếu phạm tội có một trong các tình tiết quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g hoặc điểm i khoản 2 thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tình tiết định khung hình phạt là tái phạm nguy hiểm và các tình tiết tương ứng theo các điểm từ a đến g hoặc điểm i khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự .

10. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng ( điểm i khoản 2 Điều 120)
Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do hành vi phạm tội mà gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội như: làm cho đứa trẻ bị ốm đau dẫn đến tử vong; làm cho người thân của đứa trẻ phải bỏ công việc đi tìm đứa trẻ mất nhiều ngày, tốn kém đến thời gian, tiền bạc; làm ảnh hưởng lớn đến các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước như chính sách cho người nước ngoài nhận trẻ em nước ta làm con nuôi v.v...
Khi đánh giá hành vi mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em gây hậu quả nghiêm trọng cần căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xem xét một cách khách quan toàn diện tất cả các tình tiết của vụ án và hậu quả do hành vi mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em gây  ra  để xác định hậu quả của hành vi do người phạm tội thực hiện đã nghiêm trọng chưa.
Phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em thuộc các trường hợp: có tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp; vì động cơ đe hèn; mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt nhiều trẻ em; đẻ đưa ra nước ngoài; để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo; đẻ sử dụng vào mục đích mại dâm; tái phạm nguy hiểm; gây hậu quả nghiêm trọng thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự có khung hình phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân. Đây là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, nếu người phạm tội chỉ có một tình tiết định khung hình phạt trong khi đó không có tình tiết tăng nặng mà lại có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì có thể được áp dụng hình phạt phạt dưới mười lăm năm tù, nhưng không được dưới ba năm tù, vì theo Điều 47 Bộ luật hình sự khi quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết định khung hình phạt lại có tình tiết tăng nặng, không có hoặc chỉ có một tình tiết giảm nhẹ thì không được quyết định mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt. So với khoản 2 Điều 149 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khung hình phạt quy định ở khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự năm 1999 là nặng hơn, nên không áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.
Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm hoặc phạt quản chế từ một năm đến năm năm theo khoản 3 Điều 120 Bộ luật hình sự. So với Điều 150 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình phạt bổ sung quy định tại khoản 3 Điều 120 Bộ luật hình sự năm 1999 là quy định không có lợi cho người phạm tội, bởi vì theo Điều 150 Bộ luật hình sự năm 1985 thì chỉ đối với trường hợp tái phạm nguy hiểm thì người phạm tội mới có thể bị phạt quản chế từ một năm đến năm năm, không quy định hình phạt tiền, hình phạt cấm dảm nhiệm chức vụ, hình phạt cấm làm hành nghề hoặc công việc nhất định. Do đó đối với trường hợp phạm tội này không áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.

29. TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC ( ĐIỀU 121)

Làm nhục người khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của con người.

A. CÁC DẤU HIỆU CỦA TỘI PHẠM

1. Đối với người phạm tội
Người phạm tội phải là người có hành vi (hành động) được thể hiện bằng lời nói hoặc hành động xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm danh dự của người khác như: lăng mạ, chửi rủa thậm tệ, lột quần áo giữa đám đông người, thoả mãn thú vui của xác thịt v.v...Tất cả những hành vi này chưa tới mức cấu thành tội phạm như: Hiếp dâm, cưỡng dâm và không thuộc trường hợp dâm ô với trẻ em, mà chỉ xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của người khác. Ví dụ: Một bọn lưu manh bắt một cô gái mà chúng nghi là cô này đã báo cho Công an bắt chúng về hành vi tụ tập đánh bạc ăn tiền, rồi đưa cô gái này đến một đoạn đường vắng lột trần truồng thay phiên nhau có hành vi dâm ô với cô gái rồi thả cho cô gái này về nhưng không cho mặc quần áo.
Ý thức chủ quan của người phạm tội là mong muốn cho người bị hại bị nhục với nhiều động cơ khác nhau như: để trả thù, có thể trả thù chính người bị hại hoặc cũng có thể trả thù người thân của người bị hại, để thoả mãn thú vui xác thịt.
Để làm nhục người khác, người phạm tội có thể có những hành vi vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực như: bắt trói, tra khảo, vật lộn, đấm đá hoặc dùng phương tiện nguy hiểm khống chế đe doạ buộc người bị hại phải làm theo ý muốn của mình, nhưng tất cả các hành vi, thủ đoạn đó chỉ nhằm mục đích là làm nhục chứ không nhằm mục đích khác. Tuy nhiên, nếu hành vi đó lại cấu thàh một tội riêng thì tuỳ trường hợp cụ thể người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm nhục và tội tương ứng với hành vi đã thực hiện. Ví dụ: Phan Anh T là một tên có nhiều tiến án tiền sự, T yêu chị Lê Thị H nhưng chị H lại yêu anh Đỗ Mạnh K. Biết anh K đã có vợ, nên T rủ thêm Bùi Công Q hẹn anh K đến chỗ vắng để giải quyết việc yêu đương, anh K nhận lời đến chỗ hẹn thì bị T và Q dùng dao găm khống chế bắt anh K phải cởi hết quần áo đưa cho bọn chúng, anh K xin được mặc chiếc quần lót (quần đùi) nhưng chúng không cho, anh K định bỏ chạy thì bị T đâm một nhát vào bụng rồi chúng ôm quần áo của anh K về đưa cho vợ anh K nói rằng anh K đã ngủ với vợ người khác bị bắt quả tang. Anh K bị thương phải đưa vào bệnh viện cấp cứu và điều trị 40 ngày. Kết luận pháp y xác định anh K bị thương tích có tỷ lệ thương tật 35%. Trong trường hợp này, ngoài tội làm nhục người khác, Phan Anh T và Bùi Công Q còn bị truy tố trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự.

2. Về phía người bị hại.
Là người bị xâm phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự. Việc xác định như thế nào là nhân phẩm, danh dự bị xâm phạm nghiêm trọng cũng là một vấn đề khá phức tạp, bởi vì cùng bị xâm phạm như nhau, nhưng có người bị thấy nhục hoặc rất nhục, nhưng có người lại thấy bình thường, không thấy bị nhục. Về phía người phạm tội cũng có nhận thức tương tự như vậy, họ cho rằng với hành vi như thế thì người bị làm nhục sẽ nhục hoặc rất nhục, nhưng người bị hại lại thấy chưa bị nhục. Những chuẩn mực này, nếu chỉ căn cứ vào ý thức chủ quan của người phạm tội hay người bị hại thì cũng chưa thể xác định một cách chính xác được mà phải kết hợp với các yếu tố như: trình độ nhận thức, mối quan hệ gia đình và xã hội, địa vị xã hội, quá trình hoạt động của bản thân người bị hại, phong tục tập quán, truyền thống gia đình v.v... Dư luận xã hội trong trường hợp này cũng có ý nghĩa quan trọng để xác định nhân phẩm, danh dự của người bị hại bị xâm phạm tới mức nào. Sự đánh giá của xã hội trong trường hợp này có ý nghĩa rất lớn để xác định hành vi phạm tội của người có hành vi làm nhục.

B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Làm nhục một người và không thuộc trường hợp quy định tại khoản  Điều 121 Bộ luật hình sự ( khoản 1 Điều 121)
Đây là trường hợp phạm tội không có tình tiết là yếu tố định khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 121 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội phạm. Người phạm tội thuộc trường hợp này bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. Tuy nhiên so với khoản 1 Điều 116 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này thì khoản 1 Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1999 có mức hình phạt cải tạo không giam giữ cao hơn ( hai năm so với một năm). Vì vậy, nếu áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội thực hiện hành vi trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý thì chỉ được áp dụng cao nhất là một năm.
Theo Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự thì phạm tội làm nhục người khác thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 121 Bộ luật hình sự chỉ bị khởi tố theo yêu cầu của người bị hại. Nếu người bị hại không yêu cầu thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

2. Phạm tội nhiều lần ( điểm a khoản 2 Điều 121)
Là trường hợp làm nhục từ hai lần trở lên đối với một người và nếu tách mỗi lần ra thì hành vi phạm tội vẫn cấu thành tội làm nục người khác theo khoản 1 Điều 121 Bộ luật hình sự. Đây là tình tiết định khung hình phạt mới được quy định tại khoản 2 Điều 121 Bộ luật hình sự nên không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.

3. Đối với nhiều người ( điểm b khoản 2 Điều 121)
Là trường hợp người phạm tội đã cùng một lúc hoặc nhiều lần làm nhục từ hai người trở lên. Nếu cùng một lúc làm nhục nhiều người hoăc nhiều lần làm nhục nhưng mỗi lần chỉ làm nhục một người thì chỉ bị coi là làm nhục nhiều người, nhưng nếu có một người trong số những người bị làm nhục bị làm nhục nhiều lần thì người phạm tội còn bị coi là làm nhục nhiều lần theo điểm a khoản 2 Điều 121 Bộ luật hình sự. Đây cũng là tình tiết định khung hình phạt mới được quy định tại khoản 2 Điều 121 Bộ luật hình sự nên không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.

4. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm nhục người khác (điểm c khoản 2 Điều 121)
Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một cong vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm nhục người khác là hành vi do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và hành vi làm nhục người khác đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của họ, nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện việc làm nhục người bị hại; chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện việc làm nhục một cách dễ dàng. Tuy nhiên, người phạm tội  có việc lợi dụng chức vụ để làm nhục thì mới bị coi là có tình tiết tăng nặng. Nếu tội phạm do họ thực hiện không liên quan gì đến chức vụ, quyền hạn của họ thì dù họ có chức vụ, quyền hạn thì cũng không bị coi là lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm nhục.
Đây cũng là tình tiết định khung hình phạt mới được quy định tại khoản 2 Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1999, nên không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý.

5. Làm nhục người thi hành công vụ ( điểm d khoản 2 Điều 121)
Đây là trường hợp người bị hại là người thi hành công vụ và vì thi hành công vụ mà bị làm nhục, bao gồm cả trường hợp đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ mà bị làm nhục. Người thi hành công vụ là người được các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội giao một nhiệm vụ cụ thể và thực hiện nhiệm vụ đó như: Cảnh sát làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự, làm nhiệm vụ bảo đảm an toàn giao thông; Điều tra viên làm nhiệm vụ điều tra một vụ án hình sự; Kiểm sát viên kiểm sát việc tuân theo pháp luật; Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đang xét xử vụ án hoặc đang giải quyết một vụ án; bảo vệ cơ quan xí nghiệp, các công chức, viên chức của cơ quan nhà nước đang thực hiện nhiệm vụ trong công sở hoặc ngoài công sở v.v...
Làm nhục người thi hành công vụ là hành vi nghiêm trọng hơn làm nhục người khác vì khi thi hành công vụ, người bị hại thay mặt Nhà nước, tổ chức xã hội chứ không phải nhân danh cá nhân họ, làm nhục người thi hành công vụ là làm mất uy tín, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với cơ quan Nhà nước tổ chức xã hội.

6. Làm nhục người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình (điểm đ khoản 2 Điều 121)
Người dạy dỗ người phạm tội là thầy, cô giáo trong các trường trong hệ thống các trường đào tạo giáo dục của Nhà nước hoặc của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, cũng có thể chỉ là người dạy dỗ người phạm tội theo một hợp đồng dân sự như: gia sư, huấn luyện viên... Nói chung những người dạy dỗ người phạm tội là những người thầy mà người phạm tội lẽ ra phải kính trọng, lễ phép.
Người nuôi dưỡng người phạm tội là những người có trách nhiệm nuôi dưỡng người phạm tội. Trách nhiệm này có thể do quan hệ huyết thống như bố mẹ đối với con cái, ông bà đối với cháu, anh, chị đối với các em; có thể do quan hệ hôn nhân trong trường hợp người vợ hoặc người chồng không còn khả năng lao động phải sống nhờ vào người vợ hoặc người chồng; có thể do quan hệ xã hội mà phát sịnh mối quan hệ giữa người có trách nhiệm nuôi dưỡng với người được nuôi dưỡng như: nuôi dưỡng trẻ mồ côi, nuôi dưỡng thương bệnh binh, nuôi dưỡng người cao tuổi cô đơn, nuôi dưỡng bệnh nhân...
Người chăm sóc người phạm tội là những người theo nghĩa vụ hoặc theo hợp đồng có trách nhiệm chăm sóc người phạm tội. Nói chung, người có trách nhiệm nuôi dưỡng đồng thời là người có trách nhiệm chăm sóc. Tuy nhiên cũng có trường hợp chỉ chăm sóc mà không nuôi dưỡng hoặc chỉ có nuôi dưỡng mà không có chăm sóc. Người chăm sóc là người trực tiếp tiếp xúc với người phạm tội như chăm sóc sức khoẻ, chăm sóc những sinh hoạt hành ngày như cho ăn, cho uống...
Người chữa bệnh cho người phạm tội là những người thầy thuốc như: bác sỹ, y tá hoặc nhân viên y tế... những người này có thể là người nuôi dưỡng, chăm sóc cho người phạm tội nhưng cũng có thể chỉ chữa bệnh cho người phạm tội còn chăm sóc nuôi dưỡng lại là người khác.
Đây cũng là tình tiết định khung hình phạt mới được quy định tại khoản 2 Điều 121 Bộ luật hình sự nên không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.
Phạm tội nhiều lần; đối với nhiều người; đối với người thi hành công vụ; đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình thị người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 121 Bộ luật hình sự có khung hình phạt tù từ một năm đến ba năm. So với khoản 2 Điều 116 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1999 năng hơn. Do đó không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.
Ngài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm theo khoản 3 Điều 121 Bộ luật hình sự. Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định hình phạt bổ sung đối với tội làm nhục người khác, vì vậy đói với người phạm tội làm nhục người khác trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý thì không được áp dụng hình phạt bổ sung đối với họ.

30. TỘI VU KHỐNG ( ĐIỀU 122 )

Vu khống là hành vi bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền lợi của người khác, hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.

A. CÁC DẤU HIỆU CỦA TỘI PHẠM

1. Đối với người phạm tội
Người phạm tội phải có một trong các hành vi sau:
- Bịa đạt những điều không có thực
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta gặp không biết bao nhiêu những điều man trá và khi phải nghe những điều người ta nói không đúng về mình thì chúng ta thường có một phản ứng lại và coi đó là vu khống, vu cáo, đồ bịa đặt, đồ lừa thầy phản bạn và coi đó là hành vi xấu xa, đê tiện v.v.. Nhưng không phải bao giờ những hành vi đó đều coi là tội phạm hình sự mà nhiều trường hợp người nghe, người biết chỉ coi đó là hành vi mất đạo đức, nếu cần thì xử lý hành chính, có khi giữa người bị vu khống với người có hành vi bịa đặt gặp nhau thông cảm và họ lại quan hệ tốt với nhau như cũ. Tuy nhiên, trong những năm vừa qua, nhiều kẻ lợi dụng quyền tự do, dân chủ để vu khống một số cán bộ giữ các chức vụ chủ chốt trong các cơ quan Đảng và Nhà nước, nhằm bôi nhọ danh dự hoặc thực hiện những mưu đồ khác. Vì vậy, việc đưa ra truy tố xét xử những kẻ có hành vi vu khống là rất cần thiết.
Bịa đặt là tự nghĩ ra một điều gì đó mà không có đối với người khác như: không tham ô thì bảo là tham ô, không quan hệ bất chính lại tố cáo là quan hệ bất chính, không nhận hối lộ lại tố cáo là nhận hối lộ, người đã tốt nghiệp đại học, đã bảo vệ luận văn thạc sỹ, tiến sỹ nhưng lại tố cáo họ là bằng giả v.v... Trong thực tế không ít trường hợp kẻ có hành vi bịa đặt rất tinh vi, nếu không điều tra xác minh thì rất dễ tin điều đó là sự thật, kẻ bịa đặt trong trường hợp này thường sử dụng những sự kiện có thực mà ai cũng biết để gài đặt vào trong những sự kiện có thực đó những điều không có thực. Ví dụ: Nguyễn H nguyên là Uỷ viên Uỷ ban mặt trận tổ quốc tỉnh, chỉ vì không được chấp nhận là ứng cử viên Đại biểu Quốc hội vì H che giấu quá trình hoạt động bản thân của mình. Từ đó, H nhân danh mặt trận tổ quốc tỉnh, cấu kết với một số phần tử bất mãn viết nhiều đơn gửi đến các cơ quan Đảng và Nhà nước vu cáo một số cán bộ chủ chốt của địa phương. Trong các đơn thư tố cáo, Nguyễn H đã dựa vào những việc có thực như: cưỡng chế giải toả, di dân để xây dựng công trình phúc lợi, quyết định thu hồi nhà vắng chủ của UBND, cơ quan Công an có bắt tạm giữ người có hành vi chống người thi hành công vụ v.v.. để gài đặt những điều không có thực như: ông T là chủ tịch tỉnh đã cho quân càn quết, bắt trói đánh đập dã man người vô tội, xâm phạm nghiêm trọng chính sách đối với người dân tộc thiểu số, lấy nhà vô chủ cấp cho người nhà v.v..
- Loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt
Tuy người phạm tội không bịa đặt, nhưng lại loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt. Việc loan truyền này có thể bằng nhiều hình thức khác nhau như: sáo chép làm nhiều bản gởi đi nhiều nơi, kể lại cho người khác nghe, đăng tin, bài trên các phương tiện thông tin đại chúng v.v... Người có hành vi loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt có thể biết điều đó do ai bịa đặt hoặc cũng có thể chỉ biết đó là bịa đặt còn ai bịa đặt thì không biết.
Người loan truyền phải biết rõ điều mình loan truyền là không có thực nếu họ còn bán tin bán nghi thì cũng chưa cấu thành tội vu khống.
- Bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền
Đây là trường hợp tố cáo trước cơ quan có thẩm quyền về một tội phạm xảy ra và người thực hiện tội phạm mà hoàn toàn không có thực. Trong thực tế có nhiều trường hợp các cơ quan nhà nước nhận được tin báo về tội phạm và người phạm tội, sau khi xác minh thấy không có tội phạm xảy ra đã không khởi tố vụ án hình sự hoặc tuy đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can thậm chí đã truy tố ra trước Toà án và Toà án đã kết án người bị tố cáo, nhưng sau khi kiểm tra lại toàn bộ các tài liệu do cơ quan tiến hành tố tụng thu thập thì mới xác định tội phạm và người phạm tôi bị tố cáo là không có thực, nhưng không phải vì thế mà cho rằng người đã tố cáo đã có hành vi vu khống mà phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để xác định người tố cáo không đúng đó có phải là vu khống không. Đây cũng là một vấn đề khá phức tạp cả về lý luận cũng như thực tiễn xét xử. Nhiều người sau khi được minh oan, đã yêu cầu các cơ quan nhà nước phải trừng trị kẻ đã tố cáo sai sự thật đã đẩy họ tới chỗ phải tù tội, nhưng cũng có người không yêu cầu gì. Mặc dù Bộ luật hình sự quy định tương đối đầy đủ những hành vi của công dân và của những người tiến hành tố tụng, nếu cố tình làm oan người ngay thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng trên thực tế lại có rất ít những trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự với nhiều lý do khác nhau nhưng chủ yếu cho rằng do trình độ nghiệp vụ non kém hoặc không cố ý. Trong hoạt động tố tụng tình trạng người làm chứng man khai cũng không phải ít, nhưng để có thể truy cứu trách nhiệm hình sự họ về tội khai báo gian dối theo Điều 307 Bộ luật hình sự thì lại không phải là dễ dàng. Người làm chứng man khai có thể đưa ra đủ lý do để biện bạch cho lời man khai của họ, để chứng minh là mình không cố ý. Hiện nay và sau này chắc chắn tình trạng này còn xảy ra nhiều, chúng tôi hy vọng rằng, đã đến lúc các cơ quan tiến hành tố tụng cần tổng kết thực tiến xét xử về những trường hợp tố cáo người phạm tội không đúng sự thật, người phiên dịch đã cố tình dịch không đúng mà họ biết rõ là sai sự thật để có thể đề ra chủ trương xử lý bảo đảm sự công bằng xã hội.

Tất cả những hành vi bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt hoặc tố cáo sai người phạm tội với cơ quan có thẩm quyền đều nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền lợi của người bị hại. Những hiệt hại này có thể có xảy ra hoặc cũng có thể chưa xảy ra.

2. VỀ PHÍA NGƯỜI BỊ HẠI
Người bị hại chính là người bị vu khống, là công dân (con người cụ thể) chứ không phải pháp nhân hoặc cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội. Điều này tưởng đơn giản không có gì phức tạp, nhưng thực tiễn có trường hợp có hành vi vu khống, có người vu khống nhưng lại không xác định được người bị hại là ai hoặc xác định sai người bị hại dẫn đến giải quyết vụ án không đúng. Ví dụ: Ch đã bịa đặt và loan truyền nhiều tin mà Ch biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự của một số cán bộ chủ chốt ở địa phương, nhưng Ch không chỉ đích danh ai mà chỉ nói chung chung là "những người lãnh đạo địa phương". Khi hành vi của Ch bị phát hiện, cần phải xác minh ai là người bị hại để yêu cầu khởi tố Ch thì không ai nhận mình là người bị hại, vậy là cơ quan điều tra xác định luôn người bị hại là Uỷ ban nhân huyện và thay mặt Uỷ ban nhân dân huyện ông chủ tịch ký vào công văn yêu cầu khởi tố Ch về tội vu khống.
Người bị hại trong vụ án vu khống có thể bị xúc phạm danh dự, cũng có thể bị thiệt hại về tài sản hoặc những thiệt hại khác về tinh thần, về sức khoẻ v.v..nhưng chủ yếu là thiệt hại về tinh thần (danh dự).

B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

1. Vu khống một người và không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2  Điều 122 Bộ luật hình sự ( khoản 1 Điều 112)
Đây là trường hợp phạm tội không có các tình tiết định khung tăng nặng quy định tại khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự. Người phạm tội vu khống trong trường hợp này bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 122 Bộ luật hình sự có khung hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đén hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Đây là tội phạm ít nghiêm trọng, việc đưa ra truy tố xét xử chủ yếu để giáo dục, nếu không có nhiều tình tiết tăng nặng và hậu quả của hành vi vu khống gây ra chưa nghiêm trọng lại có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì chỉ nên cảnh cáo hoặc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ.
Tuy nhiên, theo Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự quy định tội vu khống chỉ được khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại nên chỉ khi nào người bị hại có yêu cầu thì mới được khởi tố vụ án. và người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

2. Phạm tội có tổ chức ( điểm a khoản 2 Điều 122)
Cũng như trường hợp phạm tội có tổ chức khác, phạm tội vu khống có tổ chức là trường hợp có nhiều người tham gia, trong đó có người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy có người trực tiếp thực hiện tội phạm, có người xúi giục, hoặc giúp sức, nhưng tất cả đều chung một mục đích là làm thế nào để vu khống được người khác. Vu khống có tổ chức là trường hợp phạm tội nguy hiểm hơn trường hợp phạm tội không có tổ chức, vì phạm tội có tổ chức do có sự phận công, cấu kết chặt chẽ giữa những người thực hiện tội phạm nên chúng dễ dàng thực hiện việc vu khống và cũng dễ dàng che giấu hành vi phạm tội của mình.
Đây là tình tiết định khung hình phạt mới được quy định tại khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1999, nên không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý.

3. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vu khống ( điểm b khoản 2 Điều 122)
Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một cong vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ.15
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vu khống là hành vi vu khống do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và hành vi vu khống đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của họ, nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện việc vu khống; chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện việc vu khống một cách dễ dàng. Tuy nhiên, người phạm tội  có việc lợi dụng chức vụ để vu khống thì mới bị coi là có tình tiết tăng nặng. Nếu tội phạm do họ thực hiện không liên quan gì đến chức vụ, quyền hạn của họ thì dù họ có chức vụ, quyền hạn thì cũng không bị coi là lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vu khống.
Đây cũng là tình tiết định khung hình phạt mới được quy định tại khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1999, nên không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý.

4. Vu khống nhiều người ( điểm c khoản 2 Điều 122)
Cũng tương tự như trường hợp phạm tội đối với nhiều người, nhưng vì khoản 2 Điều 122 không có quy định trường hợp vu khống nhiều lần, nên vu khống đối với nhiều người bao gồm cả trường hợp một lần vu khống từ hai người trở lên hoặc nhiều lần vu khống mà tổng số người bị vu khống từ hai người trở lên. Tuy nhiên, do Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự quy định tội vu khống chỉ được khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại nên chỉ coi là phạm tội đối với nhiều người khi có từ hai người trở lên bị vụ khống và cả hai người đều có yêu cầu khởi tố vụ án.
Đây cũng là tình tiết định khung hình phạt mới được quy định tại khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1999, nên không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý.

5. Vu khống ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình ( điẻm d khoản 2 Điều 122)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tư như đối với các trường hợp phạm tội đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình, chỉ khác nhau ở chỗ người bị hại trong trường hợp này là người bị vu khống.
Đây cũng là tình tiết định khung hình phạt mới được quy định tại khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1999, nên không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý.

6. Vu khống người thi hành công vụ ( điểm đ khoản 2 Điều 122)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp phạm tội khác đối với người thi hành công vụ, chỉ khác ở chỗ trong trường hợp này người bị hại là người bị vu khống. Như vậy, lợi dụng chức vụ, quyền hạn đẻ vu khống người khác và vu khống người thi hành công vụ đều bị coi là nghiêm trọng hơn và bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình sự.
Đây cũng là tình tiết định khung hình phạt mới được quy định tại khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1999, nên không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý.

7. Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng ( điểm e khoản 2 Điều 122)
Theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự thì tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù. Ví dụ: tội gián điệp thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 80; tội giết người thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 93; tội cưỡng dâm trẻ em thuộc trường hợp quy định tại  khoản 2 Điều 114. v.v...
Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Ví dụ: Tội phản bội tổ quốc thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 78; tội giết người thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 93; tội cướp tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 133; tội nhận hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 279.v.v...
Nếu hành vi vu khống người khác phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng thì chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 122 Bộ luật hình sự.
Phạm tội thuộc các trường hợp: có tổ chức; lợi dụng chức vu, quyền hạn; đối với nhiều người; đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình; đối với người thi hành công vụ; vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặcbiệt nghiêm trọng thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ một năm đến bảy năm tù. So với khoản 2 Điều 117 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1999 không nặng hơn, nhưng tất cả các tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình sự là tình tiết mới nên không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội vu khống cũng có khoản 2, nhưng chỉ có một tình tiết định khung là phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng nên có thể coi những trường hợp phạm tội quy định tại khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1999 là trường hợp nghiêm trọng nếu người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý mà thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1999 thì áp dụng khoản 2 Điều 117 Bộ luật hình sự năm 1985 đối với người phạm tội.
Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định hình phạt bổ sung đối với tội làm nhục người khác, vì vậy đói với người phạm tội làm nhục người khác trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý thì không được áp dụng hình phạt bổ sung đối với họ.

Chương ba
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO HÀNH VI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG, SỨC KHOẺ,
 NHÂN PHẨM, DANH DỰ CON NGƯỜI

Hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm danh dự của con người không chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các quy định của Bộ luật hình sự mà còn phải bồi thường những thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Theo Điều 34 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra. Trong trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, gây thiệt hại về tinh thần, Toà án có thể buộc người phạm tội công khai xin lỗi người bị hại.
Trước đây, khi chưa có Bộ luật dân sự, việc Toà án buộc người phạm tội bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây nên căn cứ vào Thông tư số 173/UBTP ngày 23/3/1972 của Ủy ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Hiện nay, chúng ta đã có Bộ luật dân sự, do đó việc buộc người phạm tội phải bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra kể từ ngày 1/7/1996 phải căn cứ vào các quy định của Bộ luật dân sự.
Theo các quy định từ Điều 609 đến Điều 625 Bộ luật dân sự, thì việc bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

A.NHƯNG QUY ĐỊNH CHUNG

1. nguyên tắc bồi thường thiệt hại
Hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người được thực hiện do cố ý hoặc vô ý, người thực hiện hành vi đó đều phải bồi thường cho người bị thiệt hại.
Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Người phạm tội và người bị hại có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, trừ trường hợp pháp luật quy định khác.
Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình, hoặc người bị hại cũng có lỗi.
Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế, thì người phạm tội hoặc người bị hại, hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền yêu cầu Toà án thay đổi mức bồi thường.

2. năng lực chịu trách nhiệm bồi thường
Người từ đủ 18 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra. Người dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha mẹ, thì cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường mà người con này lại có tài sản riêng, thì lấy tài sản đó bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp thiệt hại mà họ gây ra trong thời gian ở trường học, các tổ chức khác đang trực tiếp quản lý họ có lỗi trong việc để họ gây thiệt hại cho người khác. Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi mà gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình, nếu không đủ thì cha mẹ phải bồi thường phần còn thiếu. Người giám hộ nếu có lỗi trong việc giám hộ để người chưa thành niên gây thiệt hại cho người khác, thì người giám hộ phải bồi thường, nếu tài sản của người mà mình giám hộ không có hoặc có nhưng không đủ để bồi thường.

B. XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI

1. thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm
Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
- Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa người bị hại trước khi họ chết;
- Chi phí hợp lý cho việc mai táng nạn nhân;
- Tiền cấp dưỡng cho người mà nạn nhân lúc còn sống phải cấp dưỡng.
- Tuỳ từng trường hợp, Toà án quyết định buộc người gây thiệt hại phải bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân gần gũi nhất của nạn nhân. Đây là một quy định mới mà trước đây chưa có, vì vậy cũng chưa có thực tiễn xét xử về vấn đề này. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử lại đòi hỏi phải có quy định như vậy để đáp ứng yêu cầu mà thực tế đặt ra. Ví dụ: Một bf mẹ có hại người con, chồng bà và người con trai đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, bà chỉ còn người con gái đang học đại học thì bị giết chết. Vì quá thương xót con gái nên bà phát bệnh tâm thần.

2. thiệt hịa do sức khoẻ bị xâm phạm
Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm:
- Chí phí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất bị giảm sút của người bị hại;
- Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị hại, nếu thu nhập thực tế của người bị hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
- Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị hại trong thời gian điều trị, nếu người bị hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc, thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc cho người bị hại và khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị hại có nghĩa vcụ cấp dưỡng khi họ chưa bị thương tích hoặc tổn hại đến sức khoẻ; 

- Tuỳ từng trường hợp Toà án quyết định buộc người phạm tội phải bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần mà người bị hại phải gánh chịu.

3. thời hạn người bị hại được hưởng bồi thường do hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người gây nên
- Trong trường hợp người bị hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì được hưởng bồi thường thiệt hại đến khi chết.
- Trong trường hợp người bị hại chết thì những người mà người này có nghĩa vụ cấp dưỡng khi họ còn sống được hưởng tiền cấp dưỡng trong thời hạn sau:
Người chưa thành niên hoặc người đã thành thai là con của người chết mà còn sống sau khi sinh ra được hưởng trợ cấp cho đến khi đủ 18 tuổi, trừ trường hợp người đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi đã tham gia lao động và có thu nhập đủ nuôi sống bản thân.
Người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, thì được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi chết.

4. thiệt hại do danh dự nhân phẩm uy tín bị xâm phạm
Thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín của người bị hại bao gồm:
- Chi phí hợp lý để hạn chế khắc phục thiệt hại;
- Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
- Tuỳ từng trường hợp, ngoài việc buộc chấm dứt hành vi vi phạm, công khai xin lỗi, cải chính công khai, Toà án quyết định người phạm tội phải bồi thường bù đáp tổn thất về tinh thần cho người bị hại.

C. BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ

1. trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
Nếu gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng thì người có hành vi gây thiệt hại không phải bồi thường, nhưng nếu do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì người có hành vi gây thiệt hại phải bồi thường. Tuy nhiên, mức bồi thường phải căn cứ vào mức độ lỗi của mỗi bên, người phạm tội chỉ phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình. Ví dụ: A gây thương tích cho B trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; tổng số thiệt hại mà A gây cho B là 80 triệu đồng, nhưng B có lỗi nặng nên Toà án chỉ buộc A phải bồi thường cho B 50 triệu đồng.

2. trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết
Người phạm tội do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Tuy nhiên, nếu có người đã gây ra tình thế cấp thiết để người khác phải phạm tội do vượt qú yêu cầu của tình thế cấp thiết thì người đã gây ra tình thế cấp thiết phải bồi thường thiệt hại cho người bị hại. Ví dụ: T là dân quân được phân công bảo vệ bãi chiếu phim. Trong lúc mọi người đang xem phim thì T phát hiện ông K là người bị bệnh tâm thần xách can xăng và cầm chiếc bật lửa chạy vào trong bãi chiếu phim vừ chạy vừa hô: "Tao sẽ đốt cả nhà mày!". T cũng biết ông K là người bị tâm thần, nhưng nếu để ông K chạy vào bãi chiếu phim thì sẽ gây nguy hiểm cho nhiều người nên T chạy đến ôm ông K đẩy ra khỏi bãi chiếu phim, vì bị tâm thần nên ông K giơ bật lửa quẹt, làm bắt lửa vào can xăng bốc cháy. Sau khi sự việc xảy ra, cơ quan điều tra phát hiẹn là M đã đưa can xăng và bật lửa cho ông K nhằm mục đích trêu chọc ông K.

3. trong trường hợp do người dùng chất kích thích gây ra
Người phạm tội do uống rượu hoặc do dùng chất kích thích khác mà lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi cả mình thì vẫn phải bồi thường thiệt hại do họ gây ra. Tuy nhiên, nếu người phạm tội lại bị người khác cố ý làm cho họ say hoặc lâm vào trong tình trạng mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, thì người có hành vi cố ý đó phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người bị hại. Ví dụ: Q và N biết A khong uống rượu, nhưng đã đè A ra đổ rượu vào miệng cho đến khi A bị say không biết gì nữa, Q và N thấy A bị say khong những không đưa A về mà còn để A voà trong trường phỏ thông cơ sở đuổi đánh các em học sinh còn mình thì đứng cười. Do vị A rượt đuổi một số em chạy khong kịp nên đã bị A đẩy ngã, trong đó có một em bị đập đầu vào gốc cây bị chấn thương sọ não có tỷ lệ thương tật 61% và phải bỏ học.

4. Trong trường hợp nhiều người cùng gây ra thiệt hại
trong trường hợp nhiều người cùng gây ra thiệt hại, thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị hại, trách nhiệm liên đới là trách nhiệm của nhiều người cùng phải bồi thường cho người khác, mặc dù mỗi người có phần trách nhiệm riêng của mình theo phần tương ứng với mực độ lỗi của họ, nhưng cơ quan thi hành án có thể buộc một người trong số nhưng người đó phải trả toàn bộ khoản tiền mà người bị hại được hưởng, rồi sau đó những người khác có nghĩa vụ thanh toán lại cho họ. Trong trường hợp không xác định được mức độ lỗi của mỗi người, thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.

5. Trong trường hợp do người của pháp nhân, do công chức, viên chức Nhà nước gây ra
Pháp nhân phải bồi thường tiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ do pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bòi thường, thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả khoản tiền mà pháp nhân đã bỏ ra bồi thường cho người bị hại.
Cơ quan Nhà nước phải bồi thường thiệt hại do cong chức, viên chức của mình gây ra trong khi thi hành công vụ và có trách nhệm yêu cầu công chức, viên chức phải hoằn trả khoản tiền mà cơ quan đã bồi thường cho người bị hại.      

----------------------------------

PHẦN PHỤ LỤC

1. Chương XII các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người từ Điều 93 đến Điều 122 Bộ luật hình sự;
2. Nghị quyết sô 32/ 1999 ngày 21-12-1999 của Quốc hội;
3. Nghị quyết sô 229/2000 ngày 28-1-2000 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội;
4. Chỉ thị số 04/2000 ngỳa 17-2-2000 của Chính phủ;
5. Thông tư lien tích số 01/ ngày 12-6-2000 và thông tư liên tịch số 02 ngày 5-7-2000 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tói cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an;
6. Nghị quyết số 01 ngày 4-8-2000 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

----------------------------------

CÙNG MỘT TÁC GIẢ

1. Trách nhiệm hình sự đối với hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người ( NXB Công an nhân dân – năm 1994)
  2. Giám đốc thẩm, tái thẩm về hình sự- những vấn đề lý luận và thực tiễn ( NXB Chính trị Quốc gia - năm 1995)
3. Các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (NXB Chính trị Quốc gia năm 1995, tái bản năm 2000 )
4. Trách nhiệm hình sự  đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người (NXB Chính trị quốc gia – năm 1997, tái bản năm 1999)
5. Bình luận án ( NXB thành phố Hồ Chí Minh - năm 1998)
6. Thủ tục xét xử sơ thẩm trong luật hình sự Việt Nam ( NXB Chính trị Quốc gia - năm 2000, tái bản năm 2001 )
7. Thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam ( NXB Chính trị Quốc gia - năm 1998 )
8. Thủ tục giám đốc thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam ( NXB Chính trị Quốc gia - năm 1999 )
9. Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự ( NXB Chính trị Quốc gia - năm 1998 )
10. Pháp luật- Thực tiễn và án lệ ( NXB Đà Nẵng - năm 1999 )
11. Thực tiễn xét xử và pháp luật hình sự( NXB Đà Nẵng - năm 2000 )
12. Hình phạt và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam (NXB Chính trị Quốc gia - năm 2000 )
13. Bình luận phần chung Bộ luật hình sự năm 1999 ( NXB thành phố Hồ Chí Minh - năm 2000 )
14. Tội phạm trong luật hình sự năm 1999 ( NXB Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2001 )
15. Tội phạm và hình phạt trong luật hình sự Việt Nam ( NXB Đà Nẵng – năm 2001

16. Bình luận Bộ luật hình sự 1999 ( phần riêng) chương XIV- Các tội xâm phạm sở hữu ( NXB Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2001)






15  Xem Đinh Văn Quế " các tình tiết tăng nng, tình tiết gim nh trách nhim hình s" NXB Chính tr Quc gia. Hà Nội, Năm 2000. Tr. 18.

BACK TO TOP