ĐINH
VĂN QUẾ
THẠC SĨ LUẬT HỌC – TOÀ ÁN NHÂN
DÂN TỐI CAO
BÌNH LUẬN BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999
PHẦN CÁC TỘI PHẠM
CHƯƠNG XII
CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH MẠNG, SỨC KHOẺ,
NHÂN PHẨM, DANH DỰ CỦA CON NGƯỜI
26.
TỘI CỐ Ý TRUYỀN HIV CHO NGƯỜI KHÁC ( ĐIỀU 118)
Xem các tội từ Điều 93 - 104 tại đây
Xem các tội từ Điều 105 - 111 tại đây
Xem các tội từ Điều 112 - 117 tại đây
Xem các tội từ Điều 93 - 104 tại đây
Xem các tội từ Điều 105 - 111 tại đây
Xem các tội từ Điều 112 - 117 tại đây
Cố
ý truyền HIV cho người khác là hành vi của một người không bị nhiễm HIV nhưng
đã cố ý truyền HIV từ người này sang người khác.
A.
CÁC DÂU HIỆU CỦA TỘI PHẠM
Điều
luật chỉ quy định người nào cố ý truyền HIV cho người khác, nếu không thuộc
trường hợp quy định tại Điều 117 của Bộ luật hình sự thì thuộc trường hợp phạm
tội quy định tại Điều 118 của Bộ luật hình sự, nhưng xem xét một cách cụ thể
chúng ta thấy giữa tội lây truyền HIV cho người khác với tội truyền HIV cho
người khác không chỉ khác nhau về tư cách chủ thể mà còn khác nhau ở cả hành vi
phạm tội. Những điểm khác nhau đó là :
-
Nếu ở Điều 117 có tên tội danh là "lây
truyền..." thì ở Điều 118 tên tội danh là "truyền", không có từ "lây"
chứng tỏ chỉ có người bị nhiễm HIV thì mới lây cho người khác được ( lây bệnh
cho người khác); "lây truyền"
tức là truyền bệnh từ cơ thể của mình sang cơ thể của người khác, còn "truyền" không bao hàm nội
dung của khái niệm "lây" nó
chỉ có nghĩa là truyền tải vi rút HIV từ cơ thể người có bệnh sang người chưa
bị nhiễm bệnh.
-
Hành vi truyền HIV cho người khác nguy hiểm hơn nhiều so với hành vi lây truyền
HIV cho người khác nên nhà làm luật coi hành vi truyền HIV là hành vi phạm tội
rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, còn hành vi lây truyền HIV nhà làm
luật chỉ coi là hành vi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng.
- Nếu ở Điều 117 chủ thể của tội phạm nhất
thiết phải là người bị nhiễm HIV, thì ở Điều 118 chủ thể của tội phạm tội có
thể là người bị nhiễm HIV nhưng chủ yếu là người không bị nhiễm HIV, nếu là
người bị nhiễm HIV thì vi rút HIV mà họ truyền cho người khác không phải vi rút
HIV trong cơ thể của họ mà vi rút từ cơ thể của người khác. Đây là dấu hiệu cơ
bản để phân biệt giữa hai tội này và cũng vị vậy mà điều luật chỉ dùng động từ
"truyền" mà không dùng động từ "lây truyền". Theo từ điển
tiếng Việt thì "lây" là truyền từ cơ thể này sang cơ thể khác,
nên khi nói lây HIV cho người khác cũng
có nghĩa là truyền HIV từ cơ thể mình sang cơ thể người khác rồi.
Người
bị hại (nạn nhân) là người đã bị truyền HIV là người có hành vi truyền HIV cho
họ đã cấu thành tội phạm này rồi, không cần biết người bị hại có bị nhiễm HIV
hay không. Nếu người bị hại không bị nhiễm HIV thì hành vi phạm tội thuộc
trường hợp phạm tội chưa đạt.
B.
CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1.
Cố ý truyền HIV cho một người và không thuọc trường hợp quy định tại từ điểm a
đến điểm đ khoản 2 Điều 118 Bộ luật hình sự ( khoản 1 Điều 118)
Đây
là trường hợp chỉ có một người bị người khác truyền HIV, người bị truyền HIV có
thể bị nhiễm HIV do bị truyền những cũng có thể không bị nhiễm, nhưng người
phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 118 Bộ luật hình
sự có khung hình phạt từ ba năm đến mười năm tù, là tội phạm rất nghiêm trọng.
Do đó, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ cũng chỉ nên áp dụng mức
hình phạt thấp nhất của khung hình phạt không nên áp dụng dưới mức thấp nhất,
đặc biệt không nên chuyển sang một hình phạt khác nhẹ hơn.
2.
Phạm tội có tổ chức
( điểm a khoản 2 Điều 118)
Cũng
giống như trường hợp phạm tội có tổ chức trong các tội phạm khác, là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc,
cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện hành vi cố ý truyền
HIV vào cơ thể người khác, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu.
Khi
xác định trường hợp phạm tội này cần chú ý phân biệt với trường hợp đồng phạm
thông thường có từ hai hoặc nhiều người cùng cố ý truyền HIV cho người khác
nhưng không có sự bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau; không có phân công vai
trò của mỗi người, không vạch kế hoạch và không có người cầm đầu.
3.
Phạm tội đối với nhiều người (
điểm b khoản 2 Điều 118)
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội qua định tại điểm a
khoản 2 Điều 117 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ người phạm tội trong
trường hợp này không phải là người lây truyền HIV trong cơ thể mình đã bị nhiễm
cho người khác mà là truyền HIV của người khác cho nhiều người khác. Ví dụ: A
biết B bị nhiễm HIV. Vì là con nghiện nên nhiều lần A xin tiền của C và D mua
ma tuý để tiêm chích nhưng C và D không cho, A tìm cách trả thù C và D. Một hôm
A đang chích ma tuý cho B thì C và D đến. B thấy C và D đến và cũng là bạn tiêm
chích ma tuý với B nhiều lần, nên B nói với C và D: "có chích thì bảo A nó
chích cho, ma tuý tao mua còn đấy". Nghe B nói vậy, C và D đồng ý, lợi
dụng cơ hội này A đã dùng kim tiêm và xi lanh đã chích ma tuý cho B để chích ma
tuý cho C và D với ý định làm cho C và D bị nhiễm HIV từ cơ thể của B.
4.
Phạm tội đối với người chưa thành niên ( điẻm c khoản 2 Điều 118)
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 117 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ người phạm tội trong
trường hợp này không phải là người lây truyền HIV trong cơ thể mình đã bị nhiễm
cho người khác mà là truyền HIV của người khác cho người chưa thành niên. Ví
dụ: H và K đều mới 17 tuổi là học sinh lớp 11, nhưng cả hai đều nghiện ma tuý
và đều yêu T bạn học cùng lớp. H biết anh trai mình là B đã bị nhiễm HIV vì
tiêm chích ma tuý. Một hôm H dang chích ma tuý cho B thì K đến nhà chơi, vì
muốn trả thù K nên H nói với K: "có làm một tý không ?". Đang lên cơn
nghiện nên K đồng ý để cho H dùng kim và xi lanh vừa chích ma tuý cho anh mình
để chích ma tuý cho K với mong muốn K sẽ bị nhiễm HIV như anh mình.
5.
Phạm tội đối với người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân
( điểm d khoản 2 Điều 118)
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm c
khoản 2 Điều 117 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ người phạm tội trong
trường hợp này không phải là người lây truyền HIV trong cơ thể mình đã bị nhiễm
cho người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ vủa nạn nhân mà là truyền HIV
của người khác cho người người thi hành công vụ.
6.
Lợi dụng nghề nghiệp để phạm tội
( điểm đ khoản 2 Điều 118)
Lợi
dụng nghề nghiệp để cố ý truyền HIV cho người khác là trường hợp người phạm tội
đã lợi dụng nghề nghiệp của mình mà nghề đó có khả năng, điều kiện thuận lợi
cho việc thực hiện hành vi cố ý truyền HIV cho người khác như lợi dụng việc
chữa bệnh cho nạn nhân để truyền HIV cho người mà mình chữa bệnh. Ví
dụ: Vũ Thị C là y tá Trung tâm cai nghiện. C biết H là người bị nhiễm HIV. Do
có mâu thuẫn với K là người yêu cũ cũng bị đưa vào trung tâm cai nghiện, nên C
có ý định trả thù K. Một lần Vũ Thị C được phân công trực, thấy K và H đều bị
lên cơn sốt, theo chỉ định của bác sỹ điều trị, K và H đều phải tiêm thuốc giảm
sốt. Lợi dụng cơ hội này, Vũ Thị C đã dùng kim tiêm và xi lanh tiêm thuốc cho H
đẻ tiêm thuốc cho K với ý định để K cũng bị nhiễm HIV.
Phạm tội thuộc các trường hợp: có tổ chức; đối với nhiều
người; đối với người chưa thành niên; đối với người thi hành công vụ oặc vì lý
do công vụ của nạn nhân; lợi dụng nghề nghiệp để phạm tội thì người phạm tội bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 118 Bộ luật hình sự có khung
hình phạt từ mười năm đến hai mươi năm tù hoặc tù chung thân. đây là tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng nên khi xét xử Toà án cân nhắc tính chất mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm
nhẹ và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự để áp dụng một mức hình phạt cụ
thể hco tương xứng với tội phạm do bị cáo gây ra. Nếu người phạm tội có nhiều
tình tiết giảm nhẹ, chưa gây ra hậu quả ( người bị truyền HIV chưa bị nhiễm
HIV) thì có thể áp dụng mức hình phạt dưới mức mười năm tù. nếu người phạm tội
tập trung nhièu tình tiết là dấu hiệu định khung hình phạt quy định tại khoản 2
Điều 118 Bộ luật hình sự lại có nhiều tình tiét tăng nặng quy định tại Điều 48
Bộ luật hình sự, hậu quả gây ra làm người bị truyên HIV nhiễm HIV và không có
nhiều tình tiết giảm nhẹ thì phải áp dụng hình phạt cao trong khung hình phạt (
hai mươi năm hoặc tù chung thân).
Ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị cấm
đảmm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định từ một năm đến năm
năm the khoản 3 Điều 118 Bộ luật hình sự.
27. TỘI MUA BÁN PHỤ NỮ ( ĐIỀU 119)
Mua bán phụ nữ là hành vi coi người phụ nữ như một món
hàng để trao đổi lấy tiền hoặc lợi ích vật chất khác
So với tội mua bán phụ nữ quy định tại Điều 115 Bộ luật
hình sự năm 1985 về cơ bản không có gì mới, chỉ bổ sung thêm một số tình tiết
là yếu tố định khung hình phạt và quy định hình phạt bổ sung ngay trong cùng
một điều luật.
A. CÁC DẤU HIỆU
CỦA TỘI PHẠM
1. Đối với người phạm tội
Người phạm tội có thể là người mua, có thể là người bán
hoặc có thể họ vừa là người mua, vừa là người bán phụ nữ. Thực tiễn xét xử
trong những năm vừa qua, chúng tội thường gặp người phạm tội là người dùng mọi
thủ đoạn lừa phỉnh phụ nữ để đem ra nước ngoài (chủ yếu là Trung Quốc) bán cho
người nước ngoài làm vợ. Việc mua bán phụ nữ xảy ra ở trong nước, nếu có cũng
chủ yếu là sự móc nối của những người trong các khâu của quá trình mua bán phụ
nữ và cuối cùng là đưa ra nước ngoài.
Quan niệm mua và bán phụ nữ cũng không hoàn toàn giống
như mua và bán những hàng hoá khác hoặc mua bán nô lệ như một số nước ở thời kỳ
trung cổ, do đó trong một số trường hợp nhìn hình thức bên ngoài chúng ta không
thấy được đó là hành vi mua bán phụ nữ, thậm chí người phụ nữ bị đem bán còn
cảm ơn người đã mua bán mình. Ví dụ: Chị Phạm Thị H đã 30 tuổi nhưng chưa có
chồng, Nguyễn Thị M là người thường đi lên Lạng Sơn buôn bán nên biết được ở
Lạng Sơn có người tìm phụ nữ có hoàn cảnh éo le để đưa sang Trung Quốc bán. M
đã về gặp chị H và kể cho chị H nghe là sang Trung Quốc lấy chống có cuộc sống
sung sướng, nếu chị H đồng ý thì M sẽ giúp đỡ. Vì hoàn cảnh như vậy nên chị H
đã đồng ý và theo M lên Lạng Sơn để sangTrung Quốc, bằng việc làm này thị M đã
được đồng bọn chia cho 1.000.000 đồng. Sau một năm, chị H viết thư về gia đình
báo tin là đã có chồng và không quên gởi lời cám ơn M đã giúp chị.
Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay, các doanh nghiệp tư
nhân của người Việt Nam cũng như của người nước ngoài tại Việt nam có sử dụng
các cán bộ khoa học hoặc công nhân có tay nghề cao là phụ nữ. Những người này
được trả lương cao thậm chí rất cao và không ít trường hợp những "ông
chủ" muốn lôi kéo họ về làm việc cho mình nên đã "mua hoặc bán"
như kiểu chuyển nhượng. Việc chuyển nhượng này không phải là hành vi phạm tội
mua bán phụ nữ.
Người phạm tội phải nhận thức được hành vi của mình là
hành vi mua bán phụ nữ thì mới là hành vi phạm tội, nếu họ không nhận thức được
hành vi của mình là hành vi mua bán phụ nữ thì không phải là tội phạm. Ví dụ:
Chị K đã ly hôn với chồng muốn sang Trung Quốc để lấy chồng vì chị nghe nói phụ
nữ Việt Nam sang bên đó lấy chồng dễ, lại có cuộc sống sung sướng. Chị K nhờ
chị L là người thường xuyên đi buôn bán ở Quảng Ninh xem có cách nào giúp chị,
chị L đồng ý và dẫn chị K ra Quảng Ninh. Tại đây, chị L giới thiệu với Trần Văn
Q về hoàn cảnh của chị K, Trần Văn Q đã đưa chị K đến nhà Hoàng Công T (T là
đối tượng thường xuyên đưa phụ nữ sang Trung Quốc bán), T đã trả cho Q 500.000
đồng, Q đêm về cho chị L 100.000 đồng và dặn lần sau có ai muốn sang Trung Quốc
lấy chồng thì cứ đưa ra đây. Mặc dù chị L có được Q cho tiền nhưng chị L không
biét việc làm của mình là hành vi giúp sức cho kẻ khác mua bán phụ nữ, nên hành
vi của chị L không phải là hành vi phạm tội.
Vì là buôn bán nên dấu hiệu thu lợi cũng là một dấu hiệu
quan trọng, nhưng nó không phải là dấu hiệu bắt buộc, việc người phạm tội có
thu lợi hay không, điều đó không có ý nghĩa về mặt định tội, nếu có thì cũng
chỉ có ý nghĩa về việc áp dụng hình phạt (lượng hình).
Hậu quả của hành vi mua bán phụ nữ là người phụ nữ đó đã
bị mua, bị bán. Nhưng nếu người phạm tội đã thực hiện các hành vi nhằm mua,
nhằm bán, nhưng việc mua bán chưa xảy ra thì cũng không vì thế mà cho rằng chưa
phạm tội mua bán phụ nữ mà trường hợp phạm tội này là phạm tội chưa đạt.
2.
Đối với người bị hại
Người
bị hại trong vụ án mua bán phụ nữ là người phụ nữ từ 16 tuổi trở lên bị mua, bị
bán. Nếu người người bị hại là phụ nữ dưới 16 tuổi thì người phạm tội không bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mau bán phụ nữ mà bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội mua bán trẻ em theo Điều 120 Bộ luật hình sự.
Hiện
nay có một tình trạng khá phổ biến là trong quá trình điều tra, truy tố, xét
xử, các cơ quan tiến hành tố tụng thường xác định người bị hại trong vụ án mua
bán phụ nữ lại là thân nhân của họ như: bố, mẹ, anh, em của người phụ nữ bị
mua, bị bán, nhất là đối với các trường hợp người bị hại bị đưa ra nước ngoài.
Việc xác định thân nhân của người bị hại là bị hại trong vụ án mua bán phụ nữ
rõ ràng là không đúng với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, nếu
không xác định thân nhân của người bị hại tham gia tố tụng với tư cách như
người bị hại thì có không ít những trường hợp không bảo đảm quyền lợi của các
đương sự nhất là đối với trường hợp người bị hại bị đưa ra nước ngoài.
Việc
xác định thân nhân của người phụ nữ bị mua, bị bán tham gia tố tụng với tư cách
là người bị hại rõ ràng là không đúng với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử một số nơi đã cho họ tham gia tố tụng với tư cách
là người đại diện của người bị hại, nhưng ngay cả trong trường hợp này cũng cần
phải có hướng dẫn cụ thể, bởi lẽ theo quy định tại Điều 39 Bộ luật tố tụng hình
sự thì chỉ trong trường hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp của
họ mới tham gia tố tụng thay cho họ còn những phụ nữ bị bán ra nước ngoài chưa
hẳn họ đã bị chết.
Trong
khi chưa có hướng dẫn hoặc sửa đổi bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự, theo chúng
tôi nếu người bị hại trong vụ án mua bán phụ nữ không xác định được địa chỉ
hoặc tuy xác định được địa chỉ nhưng không thể triêu tập họ được thì chỉ cho
thân nhân của họ tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan và chỉ giải quyết những vấn đề có liên quan đến thân nhân của người bị
hại. Ví dụ: Những khoản thiệt hại vật chất do phải đi tìm người bị hại hoặc do
người bị hại bị bán ra nước ngoài không nhận được tin tức mà thân nhân của
người bị hại tổn thất về tinh thần.
Người
bị hại có thể biết mình bị mua, bị bán nhưng cũng có thể không biết mình bị
mua, bị bán. Thậm chí có người còn tự nguyện để người khác mua bán, thì người
phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán phụ nữ.
B.
CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1.
Mua bán một phụ nữ và không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 119 Bộ
luật hình sự
( khoản 1 Điều 119)
Là
trường hợp một người hoặc nhiều người mua bán một phụ nữ mà không thuộc trường
hợp phạm tội: Mua bán phụ nữ vì mục đích
mại dâm; phạm tội có tổ chức; phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; để đưa ra
nước ngoài; mua bán nhiều người; mua bán nhiều lần, thì bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo khoản1 Điều 119 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ hai
năm đến bảy năm tù.
2.
Mua bán phụ nữ vì mục đích mại dâm ( điểm a khoản 2 Điều 119)
Mua
bán phụ nữ vì mục đích mại dâm là trường hợp sử dụng người phụ nữ bị mua, bị
bán vào việc hoạt động mại dâm. Thông thường, người phạm tội trong trường hợp
này còn bị truy cứu thêm tội môi giới mại dâm hoặc tội chứa mại dâm, nhưng cũng
có thể chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán phụ nữ vì mục đích
mại dâm nếu người phạm tội chỉ biết người phụ nữ mà mình mua, mình bán sẽ được
sử dụng vào mục đích mại dâm.
Đây
là tình tiết thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội, do đó các cơ quan tiến
hành tố tụng cần phải có căn cứ xác định người phạm tội biết người phụ nữ mà họ
mua bán là để sử dụng vào mục đích mại dâm, nếu không có căn cứ xác định người
phạm tội biết mua bán phụ nữ vì mục đích mại dâm thì không thuộc trường hợp
phạm tội này.
Tình
tiết mua bán phụ nữ vì mục đích mại dâm là tình tiết mới được quy định tại
khoản 2 Điều 119 Bộ luật hình sự năm 1999, do đó những hành vi phạm tội mua bán
phụ nữ vì mục đích mại dâm thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ
00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì người phạm tội chỉ bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 119 Bộ luật hình sự.
3.
Mua bán phụ nữ có tổ chức
( điểm b khoản 2 Điều 119)
Cũng
giống như trường hợp phạm tội có tổ chức, phạm tội mua bán phụ nữ có tổ chức là
trường hợp nhiều người tham gia, trong đó có người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy có
người trực tiếp thực hiện tội phạm, có người xúi giục, hoặc giúp sức, nhưng tất
cả đều chung một mục đích là làm thế nào để mua được, để bán được phụ nữ. Mua
bán phụ nữ có tổ chức là trường hợp phạm tội nguy hiểm hơn trường hợp phạm tội
không có tổ chức, vì phạm tội có tổ chức do có sự phận công, cấu kết chặt chẽ
giữa những người thực hiện tội phạm nên chúng dễ dàng thực hiện việc mua bán
phụ nữ và cũng dễ dàng che giấu hành vi phạm tội của mình.
4.
Mua bán phụ nữ có tính chất chuyên nghiệp ( điểm c khoản 2 Điều 119)
Phạm
tội mua bán phụ nữ có tính chất chuyên nghiệp là người phạm tội lấy việc mua
bán phụ nữ là nguồn sống chính cho mình.
Bộ
luật hình sự năm 1985 chưa coi trường hợp phạm tội này là tình tiết tăng nặng
hoặc là tình tiết định khung hình phạt. Nhưng qua thực tiễn xét xử, có một số
tội phạm, trong đó có tội mua bán phụ nữ, người phạm tội đã lấy việc phạm tội
là nguồn thu nhập chính của bản thân, nên Quốc hội đã bổ sung tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp" là tình tiết định khung tăng nặng của một số tội phạm, trong
đó có tội mua bán phụ nữ. Việc nhà làm luật coi trường hợp phạm tội có tính
chất chuyên nghiệp là tình tiết tăng nặng là yếu tố định khung hình phạt là một
yêu cầu cần thiết do thực tiễn xét xử đặt ra.
Khi
áp dụng tình tiết này, cần lưu ý rằng khái niệm chuyên nghiệp được hiểu ở đây
không đồng nghĩa với khái niệm nghề nghiệp của một người, vì không thể coi phạm
tội là một nghề kiếm sống, tính chất chuyên nghiệp của hành vi phạm tội thể
hiện ở chỗ tội phạm đó được lặp đi, lặp lại nhiều lần mà người phạm tội coi
việc phạm tội đó là phương tiện kiếm sống. Ví dụ: Hoàng Văn N là một kẻ sống
lang thang không nghề nghiệp, thường tụ tập một số người cùng cảnh ngộ như mình
chuyên tìm phụ nữ để đưa ra nước ngoài bán để lấy tiền. Tuy nhiên, không phải
hành vi phạm tội nào cứ lặp đi, lặp lại nhiều lần đều coi là có tính chất
chuyên nghiệp, mà chỉ những hành vi mà người phạm tội coi đó là phương tiện
kiếm sống thì mới là có tính chất chuyên nghiệp.
Tình
tiết mua bán phụ nữ có tính chất chuyên nghiệp là tình tiết mới được quy định
tại khoản 2 Điều 119 Bộ luật hình sự năm 1999, do đó những hành vi phạm tội mua
bán phụ nữ có tính chất chuyên nghiệp thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà
sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì người phạm tội chỉ bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 119 Bộ luật hình sự.
5.
Mua bán phụ nữ để đưa ra nước ngoài ( điểm d khoản 2 Điều 119)
Hành
vi mua bán phụ nữ để đưa ra nước ngoài được coi là hành vi phạm tội nghiêm
trọng. Thực tiễn trong những năm vừa qua hầu hết các vụ mua bán phụ nữ là để
đưa ra nước ngoài và cũng chủ yếu là đưa sang Trung Quốc.
Chỉ
cần chứng mình người phạm tội có ý định đưa người phụ nữ bị mua bán ra nước
ngoài là thuộc trường hợp phạm tội này rồi, chứ không cần phải đưa người phụ nữ
bị mua bán ra được nước ngoài trót lọt mới thuộc trường hợp phạm tội này.
Cần
phân biệt trường hợp phạm tội này với trường hợp tổ chức, cưỡng ép phụ nữ trón
đi nước ngoài có thu tiền, vàng. Nếu tiền, vàng mà người phạm tội thu được là
của người phụ nữ trốn đi nước ngoài thì không phải là mua bán phụ nữ để đưa ra
nước ngoài, vì tiền hoặc vàng mà người phạm tội có không phải của người khác mà
của chính người phụ nữ bị đưa ra nước ngoài.
6.
Mua bán nhiều phụ nữ
( điểm đ khoản 2 Điều 119)
Đây
là trường hợp có từ hai người phụ nữ trở lên bị người phạm tội mua bán, trong
đó có thể có người bị đưa ra nước ngoài, có người không bị đưa ra nước ngoài
hoặc tất cả bị đưa ra nước ngoài. Nếu có người bị đưa ra nước ngoài thì người
phạm tội vừa mua bán nhiều người vừa để đưa ra nước ngoài (hai tình tiết định
khung).
Mua
bán nhiều phụ nữ là trường hợp một lần người phạm tội mua bán nhiều phụ nữ, nếu
người phạm tội mua bán nhiều phụ nữ nhưng mỗi lần chỉ mua bán một phụ nữ thì
không thuộc trường hợp phạm tội này mà thuộc trường hợp "mua bán nhiều lần" quy định tại điểm e khoản 2 Điều 119
Bộ luật hình sự)
7.
Mua bán nhiều lần (điểm
e khoản 2 Điều 119)
Mua
bán nhiều lần là trường hợp người phạm nhiều lần thực hiện hành vi mua bán phụ
nữ và mỗi lần hành vi mua bán đã cấu thành tội mua bán phụ nữ.
Mua
bán nhiều lần, có thể mỗi lần mua bán một người phụ nữ, nhưng cũng có thể trong
các lần mua bán đó có lần mua bán nhiều người, nếu có lần mua bán nhiều người
thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm đ và điểm e khản 2
Điều 119 Bộ luật hình sự với hai tình tiết định khung là " mua bán nhiều
người và mua bán nhiều lần".
Trường
hợp, chỉ có một phụ nữ bị bán hoặc bị mua nhưng người phạm tội đã mua bán nhiều
lần đối với cùng một phụ nữ thì cũng bị coi là mua bán nhiều lần
Người
phạm tội mua bán phụ nữ trong các trường hợp: Mua bán phụ nữ vì mục đích thương
mại; phạm tội có tổ chức; để đưa ra nước ngoài; mua bán nhiều người hoặc mua
bán nhiều lần thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 119 Bộ luật
hình sự có khung hình phạt từ năm năm đến hai mươi năm tù.
Bộ
luật hình sự năm 1999 không quy định tình tiết tái phạm nguy hiểm là tình tiết
định khung hình phạt đối với tội mua bán phụ nữ nữa, nên hành vi phạm tội được
thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị
phát hiện thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm và không thuộc một trong các
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 119 Bộ luật hình sự năm 1999 thì người
phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 119 Bộ luật hình
sự.
Khi quyết định hình phạt cụ thể, toà án cần
xem xét một cách toàn diện, nếu phạm tội có nhiều tình tiết quy định tại khoản
2 Điều 119 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị mức hình phạm cao hơn người
phạm tội có một tình tiết, nếu các tình tiết của vụ án tương tự như nhau.
Hiện
nay, tình trạng mua bán phụ nữ xảy ra khá nghiêm trọng, nhất là tình trạng đưa
nhiều phụ nữ ra nước ngoài để bán, có trường hợp đặc biệt nghiêm trọng như sau
khi bị bán, có chị em viết thư về gia đình kể lại cuộc sống cơ cực ở xứ người,
bị mua đi bán lại qua nhiều lần, có chị không chịu nổi phải tự sát; bọn mua bán
phụ nữ tổ chức thành đường dây móc nối với người nước ngoài và đưa rất nhiều
phụ nữ ra nước ngoài bán thu lợi bất chính, dư luận xã hội đòi hỏi phải nghiêm
trị những tên cầm đầu, chỉ huy đồng bọn. Nhưng mức hình phạt tối đa của tội
phạm này cao nhất cũng chỉ có hai mươi năm tù. Mặt khác, việc bỏ tình tiết tái
phạm nguy hiểm là tình tiết định khung hình phạt trong tội mua bán phụ nữ là
không thoả đáng, vì tội mua bán phụ nữ là một tội nguy hiểm và dư luận đang quan
tâm, người phạm tội mà thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm phải bị phạt nặng
hơn trường hợp không thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm mới thoả đáng. Ngoài
ra, qua thực tiễn xét xử chúng tôi còn thấy trường hợp ua bán phụ nữ chưa thành
niên cũng là trường hợp lẽ ra phải áp dụng khoản 2 Điều 119 Bộ luật hình sự đối
với người phạm tội nhưng Bộ luật hình sự năm 1999 cũng không quy định tình tiết
này là tình tiết định khung hình phạt. Hy vọng rằng, khi có điều kiện hình phạt
tối đa của tội phạm này sẽ được sửa đổi bổ sung theo hương nghiêm khắc hơn.
Ngoài
hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến
năm mươi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đén năm năm theo
quy định tại khoản 3 Điều 119 Bộ luật hình sự.
28.
TỘI MUA BÁN, ĐÁNH TRÁO HOẶC CHIẾM ĐOẠT TRẺ EM (ĐIỀU 120)
Đây
là tội phạm bao gồm nhiều hành vi phạm tội độc lập với nhau nhưng cùng xâm phạm
đến một đối tượng, đó là trẻ em. Loại tội phạm này cũng tương tự nhưột só tội
phạm khác quy định trong Bộ luật hình sự, nhà làm luật quy định nhiều hành vi
phạm tội tương tự với nhau về tính chất mức đọ nguy hiểm cho xã hội trong cùng
một điều luật, nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng chống tội
phạm. Thực tiễn xét xử cho thấy nhiều vụ án, người phạm tội vừa có hành vi
chiếm đoạt, vừa có hành vi mua bán, lại vừa có hành vi đánh tráo trẻ em, nếu
tách các hành vi đó ra để truy cứu trách nhiệm hình sự về từng tội phạm riêng
thì cũng không thoả đáng, nên nhà làm luật quy định chung trong cùng một điều
luật để tuỳ từng trường hợp cụ thể, các cơ quan tiến hành tố tụng vận dụng cho
phù hợp.
Tội
mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em là tội phạm trước đây được quy định
tại Điều 149 Bộ luật hình sự năm 1985 thuộc Chương các tội xâm phạm chế độ hôn
nhân gia đình và các tội phạm đối với người chưa thành niên, với tên tội danh
là "tội bắt trộm, mua bán hoặc đánh tráo trẻ em". Nay được đưa về
chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người với
tên tội danh là "tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em" là
hoàn toàn chính xác về kỹ thuật lập pháp và thực tiễn xét xử. Vì, tội phạm này
đích thực xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người mà
người bị xâm phạm là trẻ em. Nếu trước đây chỉ quy định hành vi bắt trộm trẻ em,
nhưng thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp người phạm tội không bắt trộm mà
dùng nhiều thủ đoạn, thậm chí dùng cả vũ lực để bắt trẻ em, nên nhà làm luật
thay từ bắt trộm trẻ em thành từ chiếm đoạt trẻ em là hoàn toàn chính xác.
A.
CÁC DẤU HIỆU CỦA TỘI PHẠM
1.
Đối với người phạm tội
Theo
điều văn của điều luật thì "người
nào mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em dưới bất kỳ hình thức nào"
đều bị coi là tội phạm. Quy định này cần hiểu là:
-
Mua bán trẻ em là hành vi coi trẻ em như một món hàng để trao đổi lấy tiền hoặc
lợi ích vật chất khác. Như vậy, hành vi mua bán trẻ em cũng giống như hành vi
mua bán phụ nữ. Tuy nhiên, mục đích của việc mua bán trẻ em có những trường hợp
xuất phát từ tình cảm. Ví dụ: Vì không có con nên vợ chồng anh D chị K đã mua một
bé gái về làm con nuôi hoặc vì phong tục tập quán như: Do không có con trai,
nên vợ chồng anh T chị N đã mua một bé trai về làm con nuôi đẻ có người nỗi dõi
tổ tiên. Có trường hợp lại do mê tín dị đoan cho rằng phải nuôi một bé trai thì
vợ chồng mới sinh được con trai, nên vợ chồng anh B chị H đã mua một bé trai về
nuôi để hy vọng mình sẽ sinh được con trai. v.v... chứ không hoàn toàn mang
tính thương mại thuần tuý. Cho dùvới động cơ, mục đích nào thì hành vi mua bán
trẻ em cũng đều bị pháp luật cấm và người có hành vi này vẫn bị coi là tội
phạm.
-
Đánh tráo trẻ em là dùng trẻ em này để đổi lấy một trẻ em khác theo ý muốn của
mình. Việc đánh tráo này thường xảy ra trong các nhà hộ sinh, khi đứa trẻ sinh
ra ngoài ý muốn của cha mẹ chúng như: mong muốn có con trai thì lại sinh ra con
gái hoặc ngược lại. Hành vi đánh tráo có thể do chính bố mẹ đứa trẻ thực hiện
nhưng cũng có thể do thầy thuốc hoặc nhân viên y tế trong Bệnh viện hoặc nhà hộ
sinh thực hiện hoặc do người khác thực hiện.
-
Chiếm đoạt trẻ em dưới bất kỳ hình thức nào là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng
vũ lực, dùng thủ đoạn gian dối, lén lút, công nhiên hoặc thủ đoạn khác để chiếm
đoạt trẻ em. Chỉ có hình vi chiếm đoạt nhà làm luật mới quy định dưới bất kỳ
hình thức nào, còn hành vi mua bán và hành vi đánh tráo không thể quy định mua
bán hoặc đánh tráo dưới bất kỳ hình thức nào. Chiếm đoạt dưới bất kỳ hình thức
nào là để phân biệt với trường hợp trước đây quy định bắt trộm trẻ em chỉ mới
nói lên hình thức lén lút, còn thực tế có nhiều vụ án người phạm tội không chỉ
bắt trộm mà còn dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực, dùng thủ đoạn gian dối... để
bắt đứa trẻ.
Khi
xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, các cơ quan tiến hành tố
tụng cần căn cứ vào hành vi phạm tội cụ thể của người phạm tội để xác định tội
danh đối với họ. Nếu người phạm tội chỉ có hành vi mua bán thì tội danh của họ
là tội "mua bán trẻ em", nếu hành vi của người phạm tội là hành vi
chiếm đoạt thì định tội là "chiếm đoạt trẻ em", nếu hành vi của người
phạm tội là hành vi chiếm đoạt thì định tội là "chiếm đoạt trẻ em".
Trường
hợp người phạm tội có hai hành vi hoặc cả ba hành vi quy định trong điều luật
thì tuỳ từng trường hợp có thể định tội " mua bán và đánh tráo trẻ em
"hoặc" mua bán, đánh tráo và chiếm đoạt trẻ em", không nên định
tội "mua bán hoặc chiếm đoạt trẻ
em" vì định tội như vậy, không biết người phạm tội có hành vi nào.
Trường
hợp người phạm tội mua bán một trẻ em và chiếm đoạt một trẻ em khác thì truy
cứu người phạm tội về hai tội danh khác nhau: tội mua bán trẻ em và tội chiếm đoạt trẻ em và áp dụng Điều 50 Bộ
luật hình sự để tổng hợp hình phạt như trong trường hợp một người phạm nhiều
tội.
2.
Đối với người bị hại
Người
bị hại là người dưới 16 tuổi. Tuổi của người bị hại là một tình tiết thuộc yếu
tố khách quan không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của người phạm tội; chỉ cần
xác định người bị hại là người dưới 16 tuổi mà người phạm tội mua bán, đánh
tráo hoặc chiếm đoạt là phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em rồi.
Nói
chung đối với trường hợp trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, người phạm tội
thường có hành vi mua bán, nhất là đối với những trẻ em gái, người phạm tội
thường có hành vi mua bán, đối với trẻ em dưới 13 tuổi người phạm tội thường có
hành vi mua bán để giao cho người khác, nhất là người nước ngoài làm con nuôi,
đối với các trẻ em mới đẻ người phạm tội thường có hành vi chiếm đoạt, đánh
tráo nhằm thoả mãn nhu cầu của mình hoặc của người khác.
Nếu
trẻ em bị chiếm đoạt bằng hình thức bắt cóc làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản
thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự hình sự về tội bắt cóc
nhằm chiếm doạt tài sản quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự mà không bị truy
cứu về tội này.
B.
CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1.
Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt một trẻ em và không thuộc trường hợp quy
định tại khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự ( khoản 2 Điều 120)
Đây
là trường hợp phạm tội không có các tình tình tiết định khung hình phạt quy
định tại khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự và người phạm tội bị truy cứ trách
nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 120 có khung hình phạt từ ba năm đến đến mười
năm tù, là tội phạm rất nghiêm trọng, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết
giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, thì Toà án có thể áp
dụng mức hình phạt ba năm tù, trường hợp áp dụng hình phạt dưới ba năm tù hoặc
chuyển sang hình phạt khác nhẹ hơn phải hết sức thận trọng và là cá biệt.
2.
Phạm tội có tổ chức (
điểm a khoản 2 Điều 120)
Cũng
như trường hợp phạm tội có tổ chức khác, mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ
em có tổ chức là trường hợp nhiều người tham gia, trong đó có người chủ mưu,
cầm đầu, chỉ huy có người trực tiếp thực hiện tội phạm, có người xúi giục, hoặc
giúp sức, nhưng tất cả đều chung một mục đích là làm thế nào để mua bán, đánh
tráo hoặc chiếm đoạt được trẻ em. Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em có
tổ chức là trường hợp phạm tội nguy hiểm hơn trường hợp phạm tội không có tổ
chức, vì phạm tội có tổ chức do có sự phận công, cấu kết chặt chẽ giữa những
người thực hiện tội phạm nên chúng dễ dàng thực hiện việc mua bán, đánh tráo
hoặc chiếm đoạt trẻ em và cũng dễ dàng che giấu hành vi phạm tội của mình.
3.
Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp ( điểm b khoản 2 Điều 120)
Cũng
giốn như trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp khác, phạm tội mua bán,
đánh tráo hoặc chiếm đoạt được trẻ em có tính chất chuyên nghiệp là người phạm
tội lấy việc mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt được trẻ em là nguồn sống chính
cho mình.
Phạm
tội có tính chất chuyên nghiệp là tình tiết thuộc đặc điẻm cá nhân người phạm
tội, có thể có ở người phạm tội này mà không có ở người phạm tội khác. Trong vụ
án co đồng phạm hoặc phạm tội có tổ chức có thể chỉ có một hoặc một số người
thuộc trường hợp có tính chất chuyên nghiệp, chứ không phải tất cả những người
đồng phạm đều phải chịu chung tình tiết có tính chất chuyên nghiệp với người
phạm tội có tình tiết này.
4.
Phạm tội vì động cơ đê hèn (
điểm c khoản 2 Điều 120)
Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em vì
động cơ đê hèn cũng tương tự như trường hợp phạm tội vì động cơ đê hèn khác,
chỉ khác ở chỗ, sự hèn hạ của người phạm tội lại không trực tiếp xâm phạm đến
thể xác của người định trả thù mà thông qua hành mua bán, đánh tráo hoặc chiếm
đoạt con em của người muốn trả thù, làm cho tinh thần của người mà người phạm
tội muốn trả thù bị suy sụp. Ví dụ: Chỉ vì chị H không đồng ý kết hôn với T,
nên T đã bắt con của chị H giấu ở một nơi rồi giả vờ tìm kiếm để gây cảm tình
với chị H, để chị H đồng ý kết hôn với T. So với Điều 149 Bộ luật hình sự năm
1985 thì tình tiết này là tình tiết định khung tăng nặng mới được quy định, nên
không áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000
mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.
5.
Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt nhiều trẻ em ( điểm d khoản Điều 120)
Mua
bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt nhiều trẻ em là trường hợp một người hoặc nhiều
người một lần hoặc nhiều lần cộng lại đã mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt từ
hai trẻ em trở lên. Do điều luật không quy định tình tiết "phạm tội nhiều
lần" như đối với một số tội phạm khác nên cần phải hiều mua bán, đánh tráo
hoặc chiếm đoạt nhiều trẻ em bao gồm cả trường hợp một lần và trường hợp nhiều
lần, nhưng số lượng trẻ em bị mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt từ hai trẻ em
trở lên là người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2
Điều 120 Bộ luật hình sự. Khi áp dụng tình tiết này cần chú ý:
- Nếu một người mua bán một trẻ em và đánh tráo một trẻ
em thì người phạm tội chỉ bị truy cứu về tội " mua bán, đánh tráo trẻ
em" với tình tiết " mua bán, đánh tráo nhiều trẻ em;
- Nếu mua bán một trẻ em, đánh tráo một trẻ em và chiếm
đoạt một trẻ em thì người phạm tội cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo điểm d khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự nhưng tội danh phải ghi là
"mua bán, đánh tráo và chiếm đoạt trẻ em";
- Nếu mua bán nhiều lần và mỗi lần một trẻ em thì người
phạm tội cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 Điều 120 Bộ
luật hình sự với tình tiết " mua bán nhiều trẻ em";
- Nếu mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt nhiều lần, nhưng
chỉ có một trẻ em bị mua bán, đánh tráo hoặc bị chiếm đoạt thì người phạm tội
chỉ bị truy cứu theo khoản 1 Điều 120 Bộ luật hình sự.
6.
Để đưa ra nước ngoài (
điểm đ khoản 2 Điều 120)
Mua
bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em để đưa ra nước ngoài là trường hợp trước,
trong hoặc sau khi mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em người phạm tội có ý định đưa đứa trẻ
đó ra nước ngoài. Nếu đứa trẻ đó chưa bị đưa ra nước ngoài, nhưng nếu có căn cứ
xác định người phạm tội có ý định đưa đứa trẻ ra nước ngoài, thìnpt vẫn bị truy
cứu trách nhiệm hình sự theo điểm đ khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự với tình
tiết "để đưa ra nước ngoài".
Mục
đích của việc đưa đứa trẻ ra nước ngoài làm gì, người phạm tội có thể biết và
cũng có thể không biết (không buộc người phạm tội phải biết), nhưng nếu người
phạm tội biết đưa đứa trẻ ra nước ngoài để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo
hoặc vào mục đích mại dâm thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình
sự theo điểm e hoặc điểm g khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự.
7.
Để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo ( điẻm e khoản 2 Điều 120)
ua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em để sử
dụng vào mục đích vô nhân đạo là trường hợp sử dụng đứa trẻ bị mua bán, bị đánh
tráo, bị chiếm đoạt vào mục đích trái với nhân đạo như: sử dụng đứa trẻ vào
việc trộm cắp, lừa đảo, lao động cực nhọc để lấy tiền hoặc sử dụng đứa trẻ vào
những mục đích tàn ác khác. So với Điều 149 Bộ luật hình sự năm 1985 thì tình
tiết này là tình tiết định khung tăng nặng mới được quy định, nên không áp dụng
đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00
ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.
8.
Để sử dụng vào mục đích mại dâm (điểm
g khoản 2 Điều 120)
Mua
bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em để sử dụng vào mục đích mại dâm là trường
hợp sử dụng đứa trẻ bị mua bán, bị đánh tráo, bị chiếm đoạt vào việc mại dâm
như: Mua các em gái về buộc phải bán dâm, bán các em gái cho các ổ mại dâm. Nếu
người phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em để sử dụng vào việc
chứa mại dâm hoặc môi giới mại dâm thì còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội chứa mại dâm theo Điều 254 hoặc tội
môi giới mại dâm theo Điều 255 Bộ luật hình sự. So với Điều 149 Bộ luật hình sự
năm 1985 thì tình tiết này cũng là tình tiết định khung tăng nặng mới được quy
định, nên không áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày
1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.
9.
Người phạm tội là người thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm (điểm h khoản 2 Điều 120)
Cũng
tường tự như các trường hợp tái phạm nguy hiểm khác, người phạm tội mua bán,
đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là người
đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa
được xoá án tích mà lại phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em hoặc
đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc
chiếm đoạt trẻ em.
Vì
tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em là tội phạm rất nghiêm trọng (
khoản 1 Điều 120) là tội đặc biệt nghiêm trọng ( khoản 2 Điều 120). Do đó, nếu
người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng
do cố ý, chưa được xoá án tích hoặc đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại
phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em thì người phạm tội theo khoản nào của Điều 120
cũng thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, nếu phạm tội có một trong các tình
tiết quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g hoặc điểm i khoản 2 thì người
phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tình tiết định khung hình phạt
là tái phạm nguy hiểm và các tình tiết tương ứng theo các điểm từ a đến g hoặc
điểm i khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự .
10.
Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng (
điểm i khoản 2 Điều 120)
Mua
bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do
hành vi phạm tội mà gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội như: làm cho
đứa trẻ bị ốm đau dẫn đến tử vong; làm cho người thân của đứa trẻ phải bỏ công
việc đi tìm đứa trẻ mất nhiều ngày, tốn kém đến thời gian, tiền bạc; làm ảnh
hưởng lớn đến các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước như chính sách cho
người nước ngoài nhận trẻ em nước ta làm con nuôi v.v...
Khi
đánh giá hành vi mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em gây hậu quả nghiêm
trọng cần căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xem
xét một cách khách quan toàn diện tất cả các tình tiết của vụ án và hậu quả do
hành vi mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em gây ra để
xác định hậu quả của hành vi do người phạm tội thực hiện đã nghiêm trọng chưa.
Phạm
tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em thuộc các trường hợp: có tổ chức;
có tính chất chuyên nghiệp; vì động cơ đe hèn; mua bán, đánh tráo hoặc chiếm
đoạt nhiều trẻ em; đẻ đưa ra nước ngoài; để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo;
đẻ sử dụng vào mục đích mại dâm; tái phạm nguy hiểm; gây hậu quả nghiêm trọng
thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 120 Bộ
luật hình sự có khung hình phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù
chung thân. Đây là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, nếu người phạm tội chỉ có
một tình tiết định khung hình phạt trong khi đó không có tình tiết tăng nặng mà
lại có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự
thì có thể được áp dụng hình phạt phạt dưới mười lăm năm tù, nhưng không được
dưới ba năm tù, vì theo Điều 47 Bộ luật hình sự khi quyết định một hình phạt
dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải
trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật. Nếu người phạm tội có
nhiều tình tiết định khung hình phạt lại có tình tiết tăng nặng, không có hoặc
chỉ có một tình tiết giảm nhẹ thì không được quyết định mức hình phạt thấp nhất
của khung hình phạt. So với khoản 2 Điều 149 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khung
hình phạt quy định ở khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự năm 1999 là nặng hơn, nên
không áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000
mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.
Ngoài
hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến
năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định từ một năm đến năm năm hoặc phạt quản chế từ một năm đến năm năm theo
khoản 3 Điều 120 Bộ luật hình sự. So với Điều 150 Bộ luật hình sự năm 1985 thì
hình phạt bổ sung quy định tại khoản 3 Điều 120 Bộ luật hình sự năm 1999 là quy
định không có lợi cho người phạm tội, bởi vì theo Điều 150 Bộ luật hình sự năm
1985 thì chỉ đối với trường hợp tái phạm nguy hiểm thì người phạm tội mới có
thể bị phạt quản chế từ một năm đến năm năm, không quy định hình phạt tiền,
hình phạt cấm dảm nhiệm chức vụ, hình phạt cấm làm hành nghề hoặc công việc
nhất định. Do đó đối với trường hợp phạm tội này không áp dụng đối với hành vi
phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000
mới phát hiện xử lý.
29.
TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC (
ĐIỀU 121)
Làm
nhục người khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của con
người.
A.
CÁC DẤU HIỆU CỦA TỘI PHẠM
1.
Đối với người phạm tội
Người
phạm tội phải là người có hành vi (hành động) được thể hiện bằng lời nói hoặc
hành động xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm danh dự của người khác như: lăng mạ,
chửi rủa thậm tệ, lột quần áo giữa đám đông người, thoả mãn thú vui của xác
thịt v.v...Tất cả những hành vi này chưa tới mức cấu thành tội phạm như: Hiếp
dâm, cưỡng dâm và không thuộc trường hợp dâm ô với trẻ em, mà chỉ xúc phạm
nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của người khác. Ví dụ: Một bọn lưu manh bắt
một cô gái mà chúng nghi là cô này đã báo cho Công an bắt chúng về hành vi tụ
tập đánh bạc ăn tiền, rồi đưa cô gái này đến một đoạn đường vắng lột trần
truồng thay phiên nhau có hành vi dâm ô với cô gái rồi thả cho cô gái này về
nhưng không cho mặc quần áo.
Ý
thức chủ quan của người phạm tội là mong muốn cho người bị hại bị nhục với
nhiều động cơ khác nhau như: để trả thù, có thể trả thù chính người bị hại hoặc
cũng có thể trả thù người thân của người bị hại, để thoả mãn thú vui xác thịt.
Để
làm nhục người khác, người phạm tội có thể có những hành vi vũ lực hoặc đe doạ
dùng vũ lực như: bắt trói, tra khảo, vật lộn, đấm đá hoặc dùng phương tiện nguy
hiểm khống chế đe doạ buộc người bị hại phải làm theo ý muốn của mình, nhưng
tất cả các hành vi, thủ đoạn đó chỉ nhằm mục đích là làm nhục chứ không nhằm
mục đích khác. Tuy nhiên, nếu hành vi đó lại cấu thàh một tội riêng thì tuỳ
trường hợp cụ thể người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm
nhục và tội tương ứng với hành vi đã thực hiện. Ví dụ: Phan Anh T là một tên có
nhiều tiến án tiền sự, T yêu chị Lê Thị H nhưng chị H lại yêu anh Đỗ Mạnh K.
Biết anh K đã có vợ, nên T rủ thêm Bùi Công Q hẹn anh K đến chỗ vắng để giải
quyết việc yêu đương, anh K nhận lời đến chỗ hẹn thì bị T và Q dùng dao găm
khống chế bắt anh K phải cởi hết quần áo đưa cho bọn chúng, anh K xin được mặc
chiếc quần lót (quần đùi) nhưng chúng không cho, anh K định bỏ chạy thì bị T
đâm một nhát vào bụng rồi chúng ôm quần áo của anh K về đưa cho vợ anh K nói
rằng anh K đã ngủ với vợ người khác bị bắt quả tang. Anh K bị thương phải đưa
vào bệnh viện cấp cứu và điều trị 40 ngày. Kết luận pháp y xác định anh K bị
thương tích có tỷ lệ thương tật 35%. Trong trường hợp này, ngoài tội làm nhục
người khác, Phan Anh T và Bùi Công Q còn bị truy tố trách nhiệm hình sự về tội
cố ý gây thương tích theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự.
2.
Về phía người bị hại.
Là
người bị xâm phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự. Việc xác định như thế
nào là nhân phẩm, danh dự bị xâm phạm nghiêm trọng cũng là một vấn đề khá phức
tạp, bởi vì cùng bị xâm phạm như nhau, nhưng có người bị thấy nhục hoặc rất nhục,
nhưng có người lại thấy bình thường, không thấy bị nhục. Về phía người phạm tội
cũng có nhận thức tương tự như vậy, họ cho rằng với hành vi như thế thì người
bị làm nhục sẽ nhục hoặc rất nhục, nhưng người bị hại lại thấy chưa bị nhục.
Những chuẩn mực này, nếu chỉ căn cứ vào ý thức chủ quan của người phạm tội hay
người bị hại thì cũng chưa thể xác định một cách chính xác được mà phải kết hợp
với các yếu tố như: trình độ nhận thức, mối quan hệ gia đình và xã hội, địa vị
xã hội, quá trình hoạt động của bản thân người bị hại, phong tục tập quán,
truyền thống gia đình v.v... Dư luận xã hội trong trường hợp này cũng có ý
nghĩa quan trọng để xác định nhân phẩm, danh dự của người bị hại bị xâm phạm
tới mức nào. Sự đánh giá của xã hội trong trường hợp này có ý nghĩa rất lớn để
xác định hành vi phạm tội của người có hành vi làm nhục.
B.
CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1.
Làm nhục một người và không thuộc trường hợp quy định tại khoản Điều 121 Bộ luật hình sự ( khoản 1 Điều 121)
Đây
là trường hợp phạm tội không có tình tiết là yếu tố định khung hình phạt quy
định tại khoản 2 Điều 121 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội phạm.
Người phạm tội thuộc trường hợp này bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ
đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm, là tội phạm ít nghiêm
trọng. Tuy nhiên so với khoản 1 Điều 116 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về
tội phạm này thì khoản 1 Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1999 có mức hình phạt cải
tạo không giam giữ cao hơn ( hai năm so với một năm). Vì vậy, nếu áp dụng hình phạt
cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội thực hiện hành vi trước 0 giờ 00
ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý thì chỉ được áp
dụng cao nhất là một năm.
Theo
Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự thì phạm tội làm nhục người khác thuộc trường
hợp quy định tại khoản 1 Điều 121 Bộ luật hình sự chỉ bị khởi tố theo yêu cầu
của người bị hại. Nếu người bị hại không yêu cầu thì người phạm tội không bị
truy cứu trách nhiệm hình sự.
2.
Phạm tội nhiều lần (
điểm a khoản 2 Điều 121)
Là
trường hợp làm nhục từ hai lần trở lên đối với một người và nếu tách mỗi lần ra
thì hành vi phạm tội vẫn cấu thành tội làm nục người khác theo khoản 1 Điều 121
Bộ luật hình sự. Đây là tình tiết định khung hình phạt mới được quy định tại
khoản 2 Điều 121 Bộ luật hình sự nên không áp dụng đối với hành vi thực hiện
trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.
3.
Đối với nhiều người (
điểm b khoản 2 Điều 121)
Là
trường hợp người phạm tội đã cùng một lúc hoặc nhiều lần làm nhục từ hai người
trở lên. Nếu cùng một lúc làm nhục nhiều người hoăc nhiều lần làm nhục nhưng
mỗi lần chỉ làm nhục một người thì chỉ bị coi là làm nhục nhiều người, nhưng
nếu có một người trong số những người bị làm nhục bị làm nhục nhiều lần thì
người phạm tội còn bị coi là làm nhục nhiều lần theo điểm a khoản 2 Điều 121 Bộ
luật hình sự. Đây cũng là tình tiết định khung hình phạt mới được quy định tại
khoản 2 Điều 121 Bộ luật hình sự nên không áp dụng đối với hành vi thực hiện
trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.
4.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm nhục người khác (điểm c khoản 2 Điều 121)
Người
có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức
khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một cong vụ
nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ.
Lợi
dụng chức vụ, quyền hạn để làm nhục người khác là hành vi do người có chức vụ,
quyền hạn thực hiện và hành vi làm nhục người khác đó có liên quan trực tiếp
đến chức vụ, quyền hạn của họ, nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó
có thể thực hiện việc làm nhục người bị hại; chức vụ, quyền hạn là điều kiện
thuận lợi để người phạm tội thực hiện việc làm nhục một cách dễ dàng. Tuy
nhiên, người phạm tội có việc lợi dụng
chức vụ để làm nhục thì mới bị coi là có tình tiết tăng nặng. Nếu tội phạm do
họ thực hiện không liên quan gì đến chức vụ, quyền hạn của họ thì dù họ có chức
vụ, quyền hạn thì cũng không bị coi là lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm nhục.
Đây
cũng là tình tiết định khung hình phạt mới được quy định tại khoản 2 Điều 121
Bộ luật hình sự năm 1999, nên không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0
giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý.
5.
Làm nhục người thi hành công vụ (
điểm d khoản 2 Điều 121)
Đây
là trường hợp người bị hại là người thi hành công vụ và vì thi hành công vụ mà
bị làm nhục, bao gồm cả trường hợp đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ
mà bị làm nhục. Người thi hành công vụ là người được các cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội giao một nhiệm vụ cụ thể và thực hiện nhiệm vụ đó như: Cảnh sát làm
nhiệm vụ bảo vệ trật tự, làm nhiệm vụ bảo đảm an toàn giao thông; Điều tra viên
làm nhiệm vụ điều tra một vụ án hình sự; Kiểm sát viên kiểm sát việc tuân theo
pháp luật; Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đang xét xử vụ án hoặc đang giải quyết
một vụ án; bảo vệ cơ quan xí nghiệp, các công chức, viên chức của cơ quan nhà
nước đang thực hiện nhiệm vụ trong công sở hoặc ngoài công sở v.v...
Làm
nhục người thi hành công vụ là hành vi nghiêm trọng hơn làm nhục người khác vì
khi thi hành công vụ, người bị hại thay mặt Nhà nước, tổ chức xã hội chứ không
phải nhân danh cá nhân họ, làm nhục người thi hành công vụ là làm mất uy tín,
làm giảm lòng tin của nhân dân đối với cơ quan Nhà nước tổ chức xã hội.
6.
Làm nhục người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình (điểm đ khoản 2 Điều 121)
Người
dạy dỗ người phạm tội là thầy, cô giáo trong các trường trong hệ thống các
trường đào tạo giáo dục của Nhà nước hoặc của tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội, cũng có thể chỉ là người dạy dỗ người phạm tội theo một hợp đồng
dân sự như: gia sư, huấn luyện viên... Nói chung những người dạy dỗ người phạm
tội là những người thầy mà người phạm tội lẽ ra phải kính trọng, lễ phép.
Người
nuôi dưỡng người phạm tội là những người có trách nhiệm nuôi dưỡng người phạm
tội. Trách nhiệm này có thể do quan hệ huyết thống như bố mẹ đối với con cái,
ông bà đối với cháu, anh, chị đối với các em; có thể do quan hệ hôn nhân trong
trường hợp người vợ hoặc người chồng không còn khả năng lao động phải sống nhờ
vào người vợ hoặc người chồng; có thể do quan hệ xã hội mà phát sịnh mối quan
hệ giữa người có trách nhiệm nuôi dưỡng với người được nuôi dưỡng như: nuôi
dưỡng trẻ mồ côi, nuôi dưỡng thương bệnh binh, nuôi dưỡng người cao tuổi cô
đơn, nuôi dưỡng bệnh nhân...
Người
chăm sóc người phạm tội là những người theo nghĩa vụ hoặc theo hợp đồng có
trách nhiệm chăm sóc người phạm tội. Nói chung, người có trách nhiệm nuôi dưỡng
đồng thời là người có trách nhiệm chăm sóc. Tuy nhiên cũng có trường hợp chỉ
chăm sóc mà không nuôi dưỡng hoặc chỉ có nuôi dưỡng mà không có chăm sóc. Người
chăm sóc là người trực tiếp tiếp xúc với người phạm tội như chăm sóc sức khoẻ,
chăm sóc những sinh hoạt hành ngày như cho ăn, cho uống...
Người
chữa bệnh cho người phạm tội là những người thầy thuốc như: bác sỹ, y tá hoặc
nhân viên y tế... những người này có thể là người nuôi dưỡng, chăm sóc cho
người phạm tội nhưng cũng có thể chỉ chữa bệnh cho người phạm tội còn chăm sóc nuôi
dưỡng lại là người khác.
Đây
cũng là tình tiết định khung hình phạt mới được quy định tại khoản 2 Điều 121
Bộ luật hình sự nên không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0 giờ 00 ngày
1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.
Phạm
tội nhiều lần; đối với nhiều người; đối với người thi hành công vụ; đối với
người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình thị người phạm tội bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 121 Bộ luật hình sự có khung
hình phạt tù từ một năm đến ba năm. So với khoản 2 Điều 116 Bộ luật hình sự năm
1985 thì hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1999 năng
hơn. Do đó không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000
mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.
Ngài
hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm theo khoản 3 Điều 121
Bộ luật hình sự. Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định hình phạt bổ sung đối
với tội làm nhục người khác, vì vậy đói với người phạm tội làm nhục người khác
trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý
thì không được áp dụng hình phạt bổ sung đối với họ.
30.
TỘI VU KHỐNG (
ĐIỀU 122 )
Vu
khống là hành vi bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm
xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền lợi của người khác, hoặc bịa đặt
là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
A.
CÁC DẤU HIỆU CỦA TỘI PHẠM
1.
Đối với người phạm tội
Người
phạm tội phải có một trong các hành vi sau:
- Bịa đạt những điều không có
thực
Trong
cuộc sống hàng ngày, chúng ta gặp không biết bao nhiêu những điều man trá và
khi phải nghe những điều người ta nói không đúng về mình thì chúng ta thường có
một phản ứng lại và coi đó là vu khống, vu cáo, đồ bịa đặt, đồ lừa thầy phản
bạn và coi đó là hành vi xấu xa, đê tiện v.v.. Nhưng không phải bao giờ những
hành vi đó đều coi là tội phạm hình sự mà nhiều trường hợp người nghe, người
biết chỉ coi đó là hành vi mất đạo đức, nếu cần thì xử lý hành chính, có khi
giữa người bị vu khống với người có hành vi bịa đặt gặp nhau thông cảm và họ
lại quan hệ tốt với nhau như cũ. Tuy nhiên, trong những năm vừa qua, nhiều kẻ
lợi dụng quyền tự do, dân chủ để vu khống một số cán bộ giữ các chức vụ chủ
chốt trong các cơ quan Đảng và Nhà nước, nhằm bôi nhọ danh dự hoặc thực hiện
những mưu đồ khác. Vì vậy, việc đưa ra truy tố xét xử những kẻ có hành vi vu
khống là rất cần thiết.
Bịa
đặt là tự nghĩ ra một điều gì đó mà không có đối với người khác như: không tham
ô thì bảo là tham ô, không quan hệ bất chính lại tố cáo là quan hệ bất chính,
không nhận hối lộ lại tố cáo là nhận hối lộ, người đã tốt nghiệp đại học, đã
bảo vệ luận văn thạc sỹ, tiến sỹ nhưng lại tố cáo họ là bằng giả v.v... Trong
thực tế không ít trường hợp kẻ có hành vi bịa đặt rất tinh vi, nếu không điều
tra xác minh thì rất dễ tin điều đó là sự thật, kẻ bịa đặt trong trường hợp này
thường sử dụng những sự kiện có thực mà ai cũng biết để gài đặt vào trong những
sự kiện có thực đó những điều không có thực. Ví dụ: Nguyễn H nguyên là Uỷ viên
Uỷ ban mặt trận tổ quốc tỉnh, chỉ vì không được chấp nhận là ứng cử viên Đại
biểu Quốc hội vì H che giấu quá trình hoạt động bản thân của mình. Từ đó, H
nhân danh mặt trận tổ quốc tỉnh, cấu kết với một số phần tử bất mãn viết nhiều
đơn gửi đến các cơ quan Đảng và Nhà nước vu cáo một số cán bộ chủ chốt của địa
phương. Trong các đơn thư tố cáo, Nguyễn H đã dựa vào những việc có thực như:
cưỡng chế giải toả, di dân để xây dựng công trình phúc lợi, quyết định thu hồi
nhà vắng chủ của UBND, cơ quan Công an có bắt tạm giữ người có hành vi chống
người thi hành công vụ v.v.. để gài đặt những điều không có thực như: ông T là
chủ tịch tỉnh đã cho quân càn quết, bắt trói đánh đập dã man người vô tội, xâm
phạm nghiêm trọng chính sách đối với người dân tộc thiểu số, lấy nhà vô chủ cấp
cho người nhà v.v..
- Loan truyền những điều biết rõ
là bịa đặt
Tuy
người phạm tội không bịa đặt, nhưng lại loan truyền những điều biết rõ là bịa
đặt. Việc loan truyền này có thể bằng nhiều hình thức khác nhau như: sáo chép
làm nhiều bản gởi đi nhiều nơi, kể lại cho người khác nghe, đăng tin, bài trên
các phương tiện thông tin đại chúng v.v... Người có hành vi loan truyền những
điều biết rõ là bịa đặt có thể biết điều đó do ai bịa đặt hoặc cũng có thể chỉ
biết đó là bịa đặt còn ai bịa đặt thì không biết.
Người
loan truyền phải biết rõ điều mình loan truyền là không có thực nếu họ còn bán
tin bán nghi thì cũng chưa cấu thành tội vu khống.
- Bịa đặt là người khác phạm tội
và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền
Đây
là trường hợp tố cáo trước cơ quan có thẩm quyền về một tội phạm xảy ra và
người thực hiện tội phạm mà hoàn toàn không có thực. Trong thực tế có nhiều
trường hợp các cơ quan nhà nước nhận được tin báo về tội phạm và người phạm
tội, sau khi xác minh thấy không có tội phạm xảy ra đã không khởi tố vụ án hình
sự hoặc tuy đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can thậm chí đã truy tố ra
trước Toà án và Toà án đã kết án người bị tố cáo, nhưng sau khi kiểm tra lại
toàn bộ các tài liệu do cơ quan tiến hành tố tụng thu thập thì mới xác định tội
phạm và người phạm tôi bị tố cáo là không có thực, nhưng không phải vì thế mà
cho rằng người đã tố cáo đã có hành vi vu khống mà phải căn cứ vào từng trường
hợp cụ thể để xác định người tố cáo không đúng đó có phải là vu khống không.
Đây cũng là một vấn đề khá phức tạp cả về lý luận cũng như thực tiễn xét xử.
Nhiều người sau khi được minh oan, đã yêu cầu các cơ quan nhà nước phải trừng
trị kẻ đã tố cáo sai sự thật đã đẩy họ tới chỗ phải tù tội, nhưng cũng có người
không yêu cầu gì. Mặc dù Bộ luật hình sự quy định tương đối đầy đủ những hành
vi của công dân và của những người tiến hành tố tụng, nếu cố tình làm oan người
ngay thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng trên thực tế lại có rất ít
những trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự với nhiều lý do khác nhau
nhưng chủ yếu cho rằng do trình độ nghiệp vụ non kém hoặc không cố ý. Trong
hoạt động tố tụng tình trạng người làm chứng man khai cũng không phải ít, nhưng
để có thể truy cứu trách nhiệm hình sự họ về tội khai báo gian dối theo Điều
307 Bộ luật hình sự thì lại không phải là dễ dàng. Người làm chứng man khai có
thể đưa ra đủ lý do để biện bạch cho lời man khai của họ, để chứng minh là mình
không cố ý. Hiện nay và sau này chắc chắn tình trạng này còn xảy ra nhiều,
chúng tôi hy vọng rằng, đã đến lúc các cơ quan tiến hành tố tụng cần tổng kết
thực tiến xét xử về những trường hợp tố cáo người phạm tội không đúng sự thật,
người phiên dịch đã cố tình dịch không đúng mà họ biết rõ là sai sự thật để có
thể đề ra chủ trương xử lý bảo đảm sự công bằng xã hội.
Tất
cả những hành vi bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt hoặc tố cáo
sai người phạm tội với cơ quan có thẩm quyền đều nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây
thiệt hại đến quyền lợi của người bị hại. Những hiệt hại này có thể có xảy ra
hoặc cũng có thể chưa xảy ra.
2.
VỀ PHÍA NGƯỜI BỊ HẠI
Người
bị hại chính là người bị vu khống, là công dân (con người cụ thể) chứ không
phải pháp nhân hoặc cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội. Điều này tưởng đơn giản
không có gì phức tạp, nhưng thực tiễn có trường hợp có hành vi vu khống, có
người vu khống nhưng lại không xác định được người bị hại là ai hoặc xác định
sai người bị hại dẫn đến giải quyết vụ án không đúng. Ví dụ: Ch đã bịa đặt và
loan truyền nhiều tin mà Ch biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự của một số
cán bộ chủ chốt ở địa phương, nhưng Ch không chỉ đích danh ai mà chỉ nói chung
chung là "những người lãnh đạo địa phương". Khi hành vi của Ch bị
phát hiện, cần phải xác minh ai là người bị hại để yêu cầu khởi tố Ch thì không
ai nhận mình là người bị hại, vậy là cơ quan điều tra xác định luôn người bị
hại là Uỷ ban nhân huyện và thay mặt Uỷ ban nhân dân huyện ông chủ tịch ký vào
công văn yêu cầu khởi tố Ch về tội vu khống.
Người
bị hại trong vụ án vu khống có thể bị xúc phạm danh dự, cũng có thể bị thiệt
hại về tài sản hoặc những thiệt hại khác về tinh thần, về sức khoẻ v.v..nhưng
chủ yếu là thiệt hại về tinh thần (danh dự).
B.
CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1.
Vu khống một người và không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình sự ( khoản 1 Điều 112)
Đây
là trường hợp phạm tội không có các tình tiết định khung tăng nặng quy định tại
khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự. Người phạm tội vu khống trong trường hợp này
bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 122 Bộ luật hình sự có khung
hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đén hai năm hoặc bị phạt tù từ ba
tháng đến hai năm. Đây là tội phạm ít nghiêm trọng, việc đưa ra truy tố xét xử
chủ yếu để giáo dục, nếu không có nhiều tình tiết tăng nặng và hậu quả của hành
vi vu khống gây ra chưa nghiêm trọng lại có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì chỉ
nên cảnh cáo hoặc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ.
Tuy
nhiên, theo Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự quy định tội vu khống chỉ được khởi
tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại nên chỉ khi nào người bị hại có yêu cầu
thì mới được khởi tố vụ án. và người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình
sự.
2.
Phạm tội có tổ chức (
điểm a khoản 2 Điều 122)
Cũng
như trường hợp phạm tội có tổ chức khác, phạm tội vu khống có tổ chức là trường
hợp có nhiều người tham gia, trong đó có người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy có
người trực tiếp thực hiện tội phạm, có người xúi giục, hoặc giúp sức, nhưng tất
cả đều chung một mục đích là làm thế nào để vu khống được người khác. Vu khống
có tổ chức là trường hợp phạm tội nguy hiểm hơn trường hợp phạm tội không có tổ
chức, vì phạm tội có tổ chức do có sự phận công, cấu kết chặt chẽ giữa những
người thực hiện tội phạm nên chúng dễ dàng thực hiện việc vu khống và cũng dễ
dàng che giấu hành vi phạm tội của mình.
Đây
là tình tiết định khung hình phạt mới được quy định tại khoản 2 Điều 122 Bộ
luật hình sự năm 1999, nên không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0 giờ
00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý.
3.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vu khống ( điểm b khoản 2 Điều 122)
Người
có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức
khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một cong vụ
nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ.15
Lợi
dụng chức vụ, quyền hạn để vu khống là hành vi vu khống do người có chức vụ,
quyền hạn thực hiện và hành vi vu khống đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ,
quyền hạn của họ, nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực
hiện việc vu khống; chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội
thực hiện việc vu khống một cách dễ dàng. Tuy nhiên, người phạm tội có việc lợi dụng chức vụ để vu khống thì mới
bị coi là có tình tiết tăng nặng. Nếu tội phạm do họ thực hiện không liên quan
gì đến chức vụ, quyền hạn của họ thì dù họ có chức vụ, quyền hạn thì cũng không
bị coi là lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vu khống.
Đây
cũng là tình tiết định khung hình phạt mới được quy định tại khoản 2 Điều 122
Bộ luật hình sự năm 1999, nên không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0
giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý.
4.
Vu khống nhiều người
( điểm c khoản 2 Điều 122)
Cũng
tương tự như trường hợp phạm tội đối với nhiều người, nhưng vì khoản 2 Điều 122
không có quy định trường hợp vu khống nhiều lần, nên vu khống đối với nhiều
người bao gồm cả trường hợp một lần vu khống từ hai người trở lên hoặc nhiều
lần vu khống mà tổng số người bị vu khống từ hai người trở lên. Tuy nhiên, do
Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự quy định tội vu khống chỉ được khởi tố vụ án
theo yêu cầu của người bị hại nên chỉ coi là phạm tội đối với nhiều người khi
có từ hai người trở lên bị vụ khống và cả hai người đều có yêu cầu khởi tố vụ
án.
Đây
cũng là tình tiết định khung hình phạt mới được quy định tại khoản 2 Điều 122
Bộ luật hình sự năm 1999, nên không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0
giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý.
5.
Vu khống ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa
bệnh cho mình (
điẻm d khoản 2 Điều 122)
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tư như đối với các trường hợp phạm tội đối với ông,
bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình,
chỉ khác nhau ở chỗ người bị hại trong trường hợp này là người bị vu khống.
Đây
cũng là tình tiết định khung hình phạt mới được quy định tại khoản 2 Điều 122
Bộ luật hình sự năm 1999, nên không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0
giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý.
6.
Vu khống người thi hành công vụ
( điểm đ khoản 2 Điều 122)
Trường
hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp phạm tội khác đối với người
thi hành công vụ, chỉ khác ở chỗ trong trường hợp này người bị hại là người bị
vu khống. Như vậy, lợi dụng chức vụ, quyền hạn đẻ vu khống người khác và vu
khống người thi hành công vụ đều bị coi là nghiêm trọng hơn và bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình sự.
Đây
cũng là tình tiết định khung hình phạt mới được quy định tại khoản 2 Điều 122
Bộ luật hình sự năm 1999, nên không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0
giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý.
7.
Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng ( điểm e khoản 2 Điều 122)
Theo
quy định tại khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự thì tội phạm rất nghiêm trọng là
tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt
đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù. Ví dụ: tội gián điệp thuộc trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều 80; tội giết người thuộc trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều 93; tội cưỡng dâm trẻ em thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 114. v.v...
Tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù
chung thân hoặc tử hình. Ví dụ: Tội phản bội tổ quốc thuộc trường hợp quy định
tại khoản 1 Điều 78; tội giết người thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều
93; tội cướp tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 133;
tội nhận hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 279.v.v...
Nếu
hành vi vu khống người khác phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng thì
chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 122 Bộ luật hình sự.
Phạm
tội thuộc các trường hợp: có tổ chức; lợi dụng chức vu, quyền hạn; đối với
nhiều người; đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục, chữa bệnh cho mình; đối với người thi hành công vụ; vu khống người khác
phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặcbiệt nghiêm trọng thì người phạm tội bị truy
cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình sự có khung hình
phạt từ một năm đến bảy năm tù. So với khoản 2 Điều 117 Bộ luật hình sự năm
1985 thì khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1999 không nặng hơn, nhưng tất cả
các tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình
sự là tình tiết mới nên không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0 giờ 00
ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý. Tuy nhiên,
Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội vu khống cũng có khoản 2, nhưng chỉ có
một tình tiết định khung là phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng nên có thể
coi những trường hợp phạm tội quy định tại khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình sự năm
1999 là trường hợp nghiêm trọng nếu người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội
trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử
lý mà thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình
sự năm 1999 thì áp dụng khoản 2 Điều 117 Bộ luật hình sự năm 1985 đối với người
phạm tội.
Ngoài
hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một triệu đồng đến
mười triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ một năm đến năm năm. Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định hình phạt
bổ sung đối với tội làm nhục người khác, vì vậy đói với người phạm tội làm nhục
người khác trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát
hiện xử lý thì không được áp dụng hình phạt bổ sung đối với họ.
Chương
ba
TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI
DO HÀNH VI XÂM PHẠM
TÍNH MẠNG, SỨC KHOẺ,
NHÂN PHẨM, DANH DỰ CON NGƯỜI
Hành
vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm danh dự của con người không chỉ bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo các quy định của Bộ luật hình sự mà còn phải
bồi thường những thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Theo
Điều 34 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt
hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra. Trong trường hợp phạm
tội ít nghiêm trọng, gây thiệt hại về tinh thần, Toà án có thể buộc người phạm
tội công khai xin lỗi người bị hại.
Trước
đây, khi chưa có Bộ luật dân sự, việc Toà án buộc người phạm tội bồi thường
thiệt hại do hành vi phạm tội gây nên căn cứ vào Thông tư số 173/UBTP ngày
23/3/1972 của Ủy ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Hiện nay, chúng ta đã
có Bộ luật dân sự, do đó việc buộc người phạm tội phải bồi thường thiệt hại do
hành vi phạm tội gây ra kể từ ngày 1/7/1996 phải căn cứ vào các quy định của Bộ
luật dân sự.
Theo
các quy định từ Điều 609 đến Điều 625 Bộ luật dân sự, thì việc bồi thường thiệt
hại do hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người
là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
A.NHƯNG
QUY ĐỊNH CHUNG
1.
nguyên tắc bồi thường thiệt hại
Hành
vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người được thực
hiện do cố ý hoặc vô ý, người thực hiện hành vi đó đều phải bồi thường cho
người bị thiệt hại.
Thiệt
hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Người phạm tội và người bị hại có
thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật
hoặc thực hiện một công việc, trừ trường hợp pháp luật quy định khác.
Người
gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại
quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình, hoặc người bị
hại cũng có lỗi.
Khi
mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế, thì người phạm tội hoặc người bị
hại, hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền yêu cầu Toà án thay
đổi mức bồi thường.
2.
năng lực chịu trách nhiệm bồi thường
Người
từ đủ 18 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của
mình gây ra. Người dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha mẹ, thì cha mẹ phải
bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường mà
người con này lại có tài sản riêng, thì lấy tài sản đó bồi thường phần còn thiếu,
trừ trường hợp thiệt hại mà họ gây ra trong thời gian ở trường học, các tổ chức
khác đang trực tiếp quản lý họ có lỗi trong việc để họ gây thiệt hại cho người
khác. Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường bằng tài sản của mình, nếu không đủ thì cha mẹ phải bồi thường phần còn
thiếu. Người giám hộ nếu có lỗi trong việc giám hộ để người chưa thành niên gây
thiệt hại cho người khác, thì người giám hộ phải bồi thường, nếu tài sản của
người mà mình giám hộ không có hoặc có nhưng không đủ để bồi thường.
B.
XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI
1.
thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm
Thiệt
hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
-
Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa người bị hại trước khi họ chết;
-
Chi phí hợp lý cho việc mai táng nạn nhân;
-
Tiền cấp dưỡng cho người mà nạn nhân lúc còn sống phải cấp dưỡng.
-
Tuỳ từng trường hợp, Toà án quyết định buộc người gây thiệt hại phải bồi thường
một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân gần gũi nhất
của nạn nhân. Đây là một quy định mới mà trước đây chưa có, vì vậy cũng chưa có
thực tiễn xét xử về vấn đề này. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử lại đòi hỏi phải có
quy định như vậy để đáp ứng yêu cầu mà thực tế đặt ra. Ví dụ: Một bf mẹ có hại
người con, chồng bà và người con trai đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ, bà chỉ còn người con gái đang học đại học thì bị giết chết.
Vì quá thương xót con gái nên bà phát bệnh tâm thần.
2.
thiệt hịa do sức khoẻ bị xâm phạm
Thiệt
hại do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm:
-
Chí phí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất bị
giảm sút của người bị hại;
-
Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị hại, nếu thu nhập thực tế
của người bị hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu
nhập trung bình của lao động cùng loại;
-
Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị hại
trong thời gian điều trị, nếu người bị hại mất khả năng lao động và cần có
người thường xuyên chăm sóc, thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc
chăm sóc cho người bị hại và khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị
hại có nghĩa vcụ cấp dưỡng khi họ chưa bị thương tích hoặc tổn hại đến sức
khoẻ;
-
Tuỳ từng trường hợp Toà án quyết định buộc người phạm tội phải bồi thường một khoản
tiền bù đắp tổn thất về tinh thần mà người bị hại phải gánh chịu.
3.
thời hạn người bị hại được hưởng bồi thường do hành vi xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người gây nên
-
Trong trường hợp người bị hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì được hưởng
bồi thường thiệt hại đến khi chết.
-
Trong trường hợp người bị hại chết thì những người mà người này có nghĩa vụ cấp
dưỡng khi họ còn sống được hưởng tiền cấp dưỡng trong thời hạn sau:
Người
chưa thành niên hoặc người đã thành thai là con của người chết mà còn sống sau
khi sinh ra được hưởng trợ cấp cho đến khi đủ 18 tuổi, trừ trường hợp người đủ
15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi đã tham gia lao động và có thu nhập đủ nuôi sống
bản thân.
Người
đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, thì được hưởng tiền cấp dưỡng
cho đến khi chết.
4.
thiệt hại do danh dự nhân phẩm uy tín bị xâm phạm
Thiệt
hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín của người bị hại bao gồm:
-
Chi phí hợp lý để hạn chế khắc phục thiệt hại;
-
Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
-
Tuỳ từng trường hợp, ngoài việc buộc chấm dứt hành vi vi phạm, công khai xin
lỗi, cải chính công khai, Toà án quyết định người phạm tội phải bồi thường bù
đáp tổn thất về tinh thần cho người bị hại.
C.
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ
1.
trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
Nếu
gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng thì người có hành vi gây
thiệt hại không phải bồi thường, nhưng nếu do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng thì người có hành vi gây thiệt hại phải bồi thường. Tuy nhiên, mức bồi
thường phải căn cứ vào mức độ lỗi của mỗi bên, người phạm tội chỉ phải bồi
thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình. Ví dụ: A gây thương
tích cho B trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; tổng số
thiệt hại mà A gây cho B là 80 triệu đồng, nhưng B có lỗi nặng nên Toà án chỉ
buộc A phải bồi thường cho B 50 triệu đồng.
2.
trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết
Người
phạm tội do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết phải bồi thường cho người
bị thiệt hại. Tuy nhiên, nếu có người đã gây ra tình thế cấp thiết để người
khác phải phạm tội do vượt qú yêu cầu của tình thế cấp thiết thì người đã gây
ra tình thế cấp thiết phải bồi thường thiệt hại cho người bị hại. Ví dụ: T là
dân quân được phân công bảo vệ bãi chiếu phim. Trong lúc mọi người đang xem
phim thì T phát hiện ông K là người bị bệnh tâm thần xách can xăng và cầm chiếc
bật lửa chạy vào trong bãi chiếu phim vừ chạy vừa hô: "Tao sẽ đốt cả nhà
mày!". T cũng biết ông K là người bị tâm thần, nhưng nếu để ông K chạy vào
bãi chiếu phim thì sẽ gây nguy hiểm cho nhiều người nên T chạy đến ôm ông K đẩy
ra khỏi bãi chiếu phim, vì bị tâm thần nên ông K giơ bật lửa quẹt, làm bắt lửa
vào can xăng bốc cháy. Sau khi sự việc xảy ra, cơ quan điều tra phát hiẹn là M
đã đưa can xăng và bật lửa cho ông K nhằm mục đích trêu chọc ông K.
3.
trong trường hợp do người dùng chất kích thích gây ra
Người
phạm tội do uống rượu hoặc do dùng chất kích thích khác mà lâm vào tình trạng
mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi cả mình thì vẫn phải bồi thường
thiệt hại do họ gây ra. Tuy nhiên, nếu người phạm tội lại bị người khác cố ý
làm cho họ say hoặc lâm vào trong tình trạng mất khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi của mình, thì người có hành vi cố ý đó phải chịu trách nhiệm bồi
thường cho người bị hại. Ví dụ: Q và N biết A khong uống rượu, nhưng đã đè A ra
đổ rượu vào miệng cho đến khi A bị say không biết gì nữa, Q và N thấy A bị say
khong những không đưa A về mà còn để A voà trong trường phỏ thông cơ sở đuổi
đánh các em học sinh còn mình thì đứng cười. Do vị A rượt đuổi một số em chạy
khong kịp nên đã bị A đẩy ngã, trong đó có một em bị đập đầu vào gốc cây bị
chấn thương sọ não có tỷ lệ thương tật 61% và phải bỏ học.
4.
Trong trường hợp nhiều người cùng gây ra thiệt hại
trong
trường hợp nhiều người cùng gây ra thiệt hại, thì những người đó phải liên đới
bồi thường cho người bị hại, trách nhiệm liên đới là trách nhiệm của nhiều
người cùng phải bồi thường cho người khác, mặc dù mỗi người có phần trách nhiệm
riêng của mình theo phần tương ứng với mực độ lỗi của họ, nhưng cơ quan thi
hành án có thể buộc một người trong số nhưng người đó phải trả toàn bộ khoản
tiền mà người bị hại được hưởng, rồi sau đó những người khác có nghĩa vụ thanh
toán lại cho họ. Trong trường hợp không xác định được mức độ lỗi của mỗi người,
thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.
5.
Trong trường hợp do người của pháp nhân, do công chức, viên chức Nhà nước gây
ra
Pháp
nhân phải bồi thường tiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện
nhiệm vụ do pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bòi thường, thì có quyền yêu cầu
người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả khoản tiền mà pháp nhân đã
bỏ ra bồi thường cho người bị hại.
Cơ
quan Nhà nước phải bồi thường thiệt hại do cong chức, viên chức của mình gây ra
trong khi thi hành công vụ và có trách nhệm yêu cầu công chức, viên chức phải
hoằn trả khoản tiền mà cơ quan đã bồi thường cho người bị hại.
----------------------------------
PHẦN
PHỤ LỤC
1.
Chương XII các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người
từ Điều 93 đến Điều 122 Bộ luật hình sự;
2.
Nghị quyết sô 32/ 1999 ngày 21-12-1999 của Quốc hội;
3.
Nghị quyết sô 229/2000 ngày 28-1-2000 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội;
4.
Chỉ thị số 04/2000 ngỳa 17-2-2000 của Chính phủ;
5.
Thông tư lien tích số 01/ ngày 12-6-2000 và thông tư liên tịch số 02 ngày
5-7-2000 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tói cao, Bộ Tư
pháp, Bộ Công an;
6.
Nghị quyết số 01 ngày 4-8-2000 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
----------------------------------
CÙNG MỘT TÁC GIẢ
1. Trách nhiệm hình sự đối với hành vi xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ của con người ( NXB Công an nhân dân – năm
1994)
2. Giám đốc thẩm,
tái thẩm về hình sự- những vấn đề lý luận và thực tiễn (
NXB Chính trị Quốc gia - năm 1995)
3. Các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự (NXB Chính trị Quốc gia năm 1995, tái bản năm 2000 )
4. Trách nhiệm hình sự
đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con
người (NXB Chính trị quốc gia – năm 1997, tái bản năm 1999)
5. Bình luận án ( NXB thành
phố Hồ Chí Minh - năm 1998)
6. Thủ tục xét xử sơ thẩm trong luật hình sự Việt Nam (
NXB Chính trị Quốc gia - năm 2000, tái bản năm 2001 )
7. Thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam (
NXB Chính trị Quốc gia - năm 1998 )
8. Thủ tục giám đốc thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt
Nam ( NXB Chính trị Quốc gia - năm 1999 )
9. Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự (
NXB Chính trị Quốc gia - năm 1998 )
10. Pháp luật- Thực tiễn và án lệ (
NXB Đà Nẵng - năm 1999 )
11. Thực tiễn xét xử và pháp luật hình sự(
NXB Đà Nẵng - năm 2000 )
12. Hình phạt và quyết định hình phạt trong luật hình sự
Việt Nam (NXB Chính trị Quốc gia - năm 2000 )
13. Bình luận phần chung Bộ luật hình sự năm 1999 (
NXB thành phố Hồ Chí Minh - năm 2000 )
14. Tội phạm trong luật hình sự
năm 1999 ( NXB Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2001 )
15. Tội phạm và hình phạt trong luật hình sự Việt Nam (
NXB Đà Nẵng – năm 2001
16. Bình luận Bộ luật hình sự 1999 ( phần riêng) chương
XIV- Các tội xâm phạm sở hữu ( NXB Thành phố Hồ Chí Minh –
năm 2001)
15 Xem Đinh Văn Quế " các tình tiết tăng nặng,
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự" NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội,
Năm 2000. Tr. 18.
Khuyến Mãi








