Hôm nay :

Hotline: 0120 220 1889 - 0902 108 162

Đập Tam Hiệp nhìn từ vệ tinh

Trung Quốc là quốc gia có nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới, để đáp ứng nhu cầu năng lượng của mình Trung Quốc đã tiến hành xây dựng đập thủy điện trên con sông Dương Tử và nó có tên là đập thủy điện Tam Hiệp, tọa lạc tại Tam Đẩu Bình, Nghi Xương, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Việc xây dựng bắt đầu vào năm 1994. Nó là đập thủy điện lớn nhất thế giới. Hồ chứa nước của nó đã bắt đầu có nước vào ngày 01 tháng 6 năm 2003, và sẽ chiếm toàn bộ vị trí hiện tại của khu vực Tam Hiệp thơ mộng, nằm giữa các thành phố Nghi Xương (tỉnh Hồ Bắc) và Bồi Lăng (thành phố Trùng Khánh).
Ngay từ khi được chính thức khởi công (14/12/1994), Công trình trị thủy Tam Hiệp trên sông Trường Giang, TQ, đã khiến cả thế giới phải ngưỡng mộ vì sự vĩ đại của nó. Điều này được minh chứng vào tháng 6/1996, hội nghị “Về các Công trình xây dựng trên toàn thế giới” có sự hiện diện của các đại biểu đến từ rất nhiều quốc gia, họp tại Barcelona (Tây Ban Nha), đã xếp Công trình Tam Hiệp là một trong những công trình “siêu cấp toàn cầu”. Công trình này cũng đã được LHQ xếp hạng là “công trình vĩ đại nhất thế giới”.Sở dĩ như vậy vì Công trình trị thủy Tam Hiệp là một tổ hợp các công trình quan trọng.
Trừ âu thuyền, dự án này đã hoàn thành và vận hành đầy đủ các chức năng vào ngày 31 tháng 7, 2012, khi các tuốc-bin chính cuối cùng bắt đầu cho điện. Mỗi tuốc-bin có công suất 700 MW. Thân đập được hoàn thành năm 2006. Ngoài 32 tuốc-bin chính còn có 2 máy phát điện nhỏ hơn (mỗi máy 50 MW) phục vụ cho nhà máy, tổng công suất phát điện của đập là 22.500 MW, gấp 2 lần tổng công suất các nhà máy điện hạt nhân ở Anh cộng lại,

Giống như nhiều đập nước đang xây dựng khác, dự án này cũng gây ra nhiều ý kiến trái ngược về sự đúng sai trong và ngoài Trung Quốc. Các đề xuất xây dựng dựa vào các lợi ích kinh tế từ việc kiểm soát ngập lụt và năng lượng từ thủy điện. Các ý kiến chống lại chủ yếu là do các e ngại về tương lai của 1,9 triệu người sẽ phải di chuyển chỗ ở do mực nước tăng lên, sự mất đi của nhiều địa điểm có giá trị khảo cổ học và văn hóa, cũng như các tác động tới môi trường.

Được làm từ bê tông và thép, đập có chiều dài 2.355m và đỉnh đập cao 185 mét  trên mực nước biển. Công trình đã sử dụng 27,2 triệu mét khối bê tông (chủ yếu cho thành đập), 463.000 tấn thép (đủ xây 63 tháp Eiffel, đào 102,6 triệu mét khối đất. Thành đập cao 181 mét so với nền đá (tương đương với một tòa nhà 60 tầng).

Mực nước đập cao tối đa 175m trên mực nước biển, cao hơn mực nước sông ở hạ nguồn 110 m, vùng hồ chứa có chiều dài trung bình khoảng 660 km và rộng 1,12 km. Vùng hồ chứa có thể tích 39,3 km3 và tổng diện tích bề mặt nước 1045 km2. Khi hoàn thành, tổng diện tích đất bị ngập nước của hồ là 632 km2, so với 1350 km2 diện tích bị ngập của Đập Itaipu.

Đập được xây dựng trong thời gian kéo dài suốt 17 năm với khoảng 40000 công nhân làm việc, với tổng chi phí lên tới 25 tỷ USD.

Trước khi xây dựng đập Thủy điện này Chính phủ Trung Quốc phải đổi dòng con sông Dương Tử rộng hơn 2km và sơ tán khoảng 1 triệu người dân ra khỏi khu vực dự kiến sẽ cho ngập nước, hàng ngàn khu nhà tái định cư đã được xây dựng cho những hộ dân sẽ phải rời đi. Sau đó các kỹ sư mới có thể chặn dòng trên sông.
Công trình này sử dụng đến 27.2 triệu mét khối bê tông, bạn hãy thử hình dung một đường ống bê tông có đường kính rộng một mét chạy một vòng quanh trái đất, đây đúng là một lượng bê tông khổng lồ. Khi chặn dòng nước đập thủy điện này để vào bể chứa của đập khiến lượng nước dồn lại đã khiến tốc độ quay của Trái đất bị chậm lại một phần nhỏ. Gần đây, các nhà khoa học còn cho rằng chính đập Tam Hiệp là nguyên nhân khiến ngày 30/6 vừa rồi kéo dài thêm 0,06s. Như vậy, có thể nói đập Tam Hiệp đóng vai trò một nửa khiến thế giới có thêm 1 giây, ảnh hưởng đến hệ thống máy tính toàn cầu.

Đề xuất và xây dựng dự án

Tôn Dật Tiên đã lần đầu tiên xem xét kế hoạch xây dựng đập trên sông Dương Tử vào năm 1919 để phát điện, nhưng ý tưởng này đã bị gác lại do các hoàn cảnh và điều kiện chính trị cũng như kinh tế không thuận lợi. Đến năm 1944, công trình nghiên cứu tiền khả thi đã được giao cho một kỹ sư thành viên của Phòng Nông nghiệp Hoa Kỳ, tuy nhiên dự án này đã bị bỏ dở vào năm 1947. Nguyên nhân chính thức được biết đến là vấn đề tài chính, tuy nhiên trên thực tế là do những sự kiện gắn liền với cuộc cách mạng giành chính quyền của những người cộng sản Trung Quốc. Các trận lụt lội lớn đã làm sống lại ý tưởng này và chính quyền đã chấp thuận nó năm 1954 để kiểm soát lụt lội. Về sau, dự án này được các chuyên gia Liên Xô (cũ) tiếp tục thực hiện cho đến khi quan hệ ngoại giao giữa 2 nước bị rạn nứt. Trên thực tế, bắt đầu từ 1955, các nghiên cứu triển khai dự án đã được tiến hành liên tục.

Thứ trưởng Bộ điện lực Lý Duệ đầu tiên cho rằng đập này cần phải đa mục đích, rằng cần phải xây dựng các đập nhỏ hơn trước cho đến khi Trung Quốc có đủ năng lực tài chính để có thể chịu được dự án tốn kém này và việc xây dựng cần được chia thành nhiều giai đoạn để có thời gian giải quyết các vấn đề kỹ thuật, theo như các nhà Trung Quốc học Kenneth Lieberthal và Michel Oksenberg.

Sau này, Lý Duệ kết luận rằng không nhất thiết phải xây dựng đập này do nó quá tốn kém. Ông cũng bổ sung thêm rằng đập nước sẽ làm ngập lụt nhiều thành thị và đất nông nghiệp màu mỡ, làm cho các vùng lưu vực trung và hạ lưu sông Dương Tử bị ngập lụt thảm họa trong quá trình xây dựng và không giúp ích nhiều cho vận tải thủy. Các quan chức tỉnh Tứ Xuyên cũng chống lại việc xây dựng do Tứ Xuyên nằm ở thượng nguồn sẽ phải gánh chịu nhiều phí tổn trong khi tỉnh Hồ Bắc ở hạ nguồn sẽ nhận được nhiều lợi ích.

Lâm Nhất Sơn, chủ nhiệm văn phòng quy hoạch lưu vực Dương Tử, là người chịu trách nhiệm của dự án thì lại cổ vũ cho việc xây dựng đập. Sự lạc quan của ông về việc giải quyết các vấn đề kỹ thuật đã được đẩy đi xa hơn vào năm 1958 do điều kiện chính trị thích hợp và sự ủng hộ của Chủ tịch nước khi đó là Mao Trạch Đông, là người muốn Trung Quốc có đập thủy điện lớn nhất thế giới, theo Lieberthal và Oksenberg. Các phê phán đã bị cấm đoán, nhưng sự trì trệ đã sinh ra từ cuộc Đại nhảy vọt đầy thảm họa và đã kết thúc các công việc chuẩn bị vào năm 1960.

Ý tưởng lại hồi sinh vào năm 1963 như một phần của chính sách mới để xây dựng "mặt trận thứ ba" của công nghiệp tại tây nam Trung Quốc. Nhưng Cách mạng văn hóa Trung Quốc đã nổ ra năm 1966 và trong năm 1969 sự e ngại rằng đập có thể bị Liên Xô (khi đó bị coi là kẻ thù) phá hoại đã góp phần trì hoãn việc xây dựng. Năm 1970, dự án lại được tiếp tục trở lại với Cát Châu Bá, một đập nhỏ hơn về phía hạ lưu, nhưng nó cũng nhanh chóng gặp phải các vấn đề kỹ thuật phức tạp và chi phí đã vượt quá dự toán giống như đối với đập Tam Hiệp xét theo thang độ của từng công trình.

Cải cách kinh tế bắt đầu năm 1978 đã nhấn mạnh nhu cầu về điện năng để cung cấp cho các cơ sở công nghiệp đang lớn mạnh, vì thế Quốc vụ viện Trung Quốcđã phê chuẩn việc xây dựng năm 1979. Nghiên cứu khả thi đã được tiến hành trong các năm 1982 - 1983 để xoa dịu lượng người chỉ trích ngày càng tăng, những người cho rằng dự án này đã không được dựa trên đầy đủ các nghiên cứu về kỹ thuật, xã hội hay môi trường. Trong những năm thập niên 1980, người Mỹ đã quay trở lại tham gia dự án. Các nghiên cứu khả thi tiếp theo đã được tiến hành từ năm 1985 đến 1988 bởi liên doanh Canada quốc tế của dự án quản lý sông Dương Tử, một côngxoócxiom của 5 hãng công nghệ Canada.

Theo Lieberthal và Oksenberg, các lãnh đạo của Trùng Khánh cũng đột ngột yêu cầu là độ cao của đập cần nâng một cách đáng kể đến mức nó có thể làm hỏng dự án và giải phóng họ khỏi gánh nặng của các chi phí. Độ cao mới và yêu cầu về nghiên cứu tin cậy hơn bằng sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế đã sinh ra nghiên cứu khả thi mới vào năm 1986.

Nhà sinh thái học, viện sĩ Hầu Học Dục là một trong số ít người từ chối không ký vào báo cáo môi trường vì cho rằng nó đã báo cáo sai sự thật về các lợi ích môi trường thu được nhờ đập này và đã đánh giá không đúng phạm vi ảnh hưởng tới môi trường cũng như thiếu các giải pháp cụ thể cho các lo ngại về môi trường.

Những nhà hoạt động vì sinh thái môi trường trong nước và quốc tế bắt đầu phản đối gay gắt hơn. Các luật gia về nhân quyền đã chỉ trích kế hoạch tái định cư. Các nhà khảo cổ học cũng e ngại do sự nhấn chìm của một lượng lớn các di tích lịch sử. Nhiều người đã nói về việc mất đi của một trong những kỳ quan đẹp nhất thế giới.

Có không ít các kỹ sư tỏ ý không tin tưởng rằng đập thực sự sẽ đạt được các mục đích đề ra. Nhà báo/kỹ sư Đái Tình đã xuất bản cuốn sách gồm các chỉ trích nghiêm khắc của các nhà khoa học Trung Quốc đối với dự án này. Tuy thế rất nhiều công ty xây dựng nước ngoài vẫn tiếp tục thúc ép chính quyền của họ ủng hộ về tài chính do việc xây dựng với hy vọng thắng thầu.


Phê chuẩn dự án


Đối mặt với áp lực trong nước và quốc tế, Quốc vụ viện Trung Quốc vào tháng 3 năm 1989 đã đồng ý hoãn kế hoạch xây dựng này lại trong 5 năm. Tuy nhiên, sau sự kiện Thiên An Môn 1989, chính quyền đã cấm các tranh cãi về con đập này, kết tội các chỉ trích của nước ngoài là thiển cận hay có ý đồ làm suy yếu chính quyền cũng như bắt giam Đái Tình và nhiều người chỉ trích khác.

Thủ tướng Lý Bằng đã vận động cho việc xây dựng đập này và đưa nó đến quyết định cuối cùng tại Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc Trung Quốc vào tháng 4 năm 1992 mặc dù 1/3 số đại biểu bỏ phiếu trắng hoặc bỏ phiếu chống. Đây là sự kiện chưa từng có tiền lệ từ cơ quan mà thông thường rất nhanh chóng thông qua các đề nghị của chính phủ. Quyết định xây dựng công trình đập Tam Hiệp được chính thức thông qua tại phiên họp Quốc hội Trung Quốc vào ngày 3 tháng 4 năm 1992 với 1.767 phiếu thuận, 177 phiếu chống và 664 phiếu trắng.

Việc tái định cư được tiến hành ngay sau đó và những sự chuẩn bị về vật chất đã bắt đầu năm 1994. Trong khi chính phủ tập trung thu hút công nghệ, dịch vụ, tài chính từ phía nước ngoài thì các lãnh đạo lại dành cho các hãng Trung Quốc công nghệ và các hợp đồng xây dựng.
Những tranh cãi xung quanh con đập

Máy phát cuối cùng trên tổng số 32 máy phát điện của đập Tam Hiệp đã chính thức đi vào hoạt động ngày 31/ 07/ 2012, đưa Tam Hiệp trở thành dự án thủy điện lớn nhất thế giới.

Máy phát số 32 được đưa vào hoạt động ngày 31/ 7/ 2012

Con đập khổng lồ, gây nhiều tranh cãi này được xây dựng trên sông Dương Tử, đoạn thuộc tỉnh Hồ Bắc. Nó được thiết kế để giảm nguy cơ lũ lụt trong mùa mưa bão, cũng như trữ và điều hòa nước trong mùa khô.

Sau các trận bão lớn, mỗi giây, có khoảng 70.000 mét khối nước từ sông Dương Tử sẽ ồ ạt đổ vào khu vực trữ nước của đập. Đập sẽ giữ lại ít nhất 26.000 mét khối nước mỗi giây và xả ra 43.000 mét khối nước còn lại.

Việc xây dựng đập đã vấp phải sự chỉ trích quyết liệt của các chuyên gia thủy điện toàn cầu cũng như của cư dân các khu vực lân cận. 

Đập sẽ giữ lại ít nhất 25.000 mét khối nước và xả 43.000 mét khối còn lại qua 7 cửa xả.

Từ năm 2003, khi đập chính thức đi vào hoạt động, Bắc Kinh luôn tôn vinh đây là biểu tượng của sức mạnh xây dựng Trung Quốc. Tuy nhiên, tháng 5 năm ngoái, họ đã phải thừa nhận đập Tam Hiệp đang làm phát sinh nhiều vấn đề. Trước đó, giới khoa học từng cảnh báo rằng trọng lượng quá nặng của khu vực trữ nước có thể làm biến đổi địa chất vùng trung tâm Trung Quốc một cách nguy hiểm, đầu độc nguồn nước và phá hủy môi trường.

Việc xây dựng đập được báo cáo là có chất lượng kém, với các vết nứt lớn đã xuất hiện trong thân đập vào năm 2000, đã dẫn đến các chỉ trích trong tiên tri các thảm họa tiềm ẩn tương tự như đối với đập Bản Kiều năm 1975.

Trong báo cáo hàng năm tới Quốc hội Hoa Kỳ, Bộ quốc phòng Mỹ cho rằng những người Đài Loan là "những người đề xuất các cú đánh vào đại lục dường như hy vọng rằng các đe dọa đối với dân cư đô thị Trung Quốc hay các mục tiêu có giá trị như đập Tam Hiệp sẽ làm giảm bớt sự áp bức quân sự của người Trung Quốc." Ý nghĩ cho rằng giới quân sự Đài Loan có thể tìm cách tiêu hủy đập Tam Hiệp đã gây ra phản ứng giận dữ từ các phương tiện thông tin đại chúng của đại lục. Tướng Liu Yuan của Giải phóng quân nhân dân đã phát biểu trên China Youth Daily rằng giải phóng quân nhân dân cần "nghiêm túc trong việc bảo vệ chống lại những đe dọa từ những kẻ khủng bố Đài Loan". Mặc dù có tuyên bố của thứ trưởng quốc phòng Đài Loan Thái Minh Hiền về sự ngược lại, phần lớn các nhà phân tích cho rằng người Đài Loan không có khả năng mà cũng không tìm kiếm các công nghệ để ném bom đập Tam Hiệp vì những đe dọa của Bắc Kinh về việc đáp trả bằng lực lượng quân sự áp đảo.

Trong tháng 9 năm 2004 Thời báo Trung Quốc (China Daily) thông báo rằng một lực lượng vũ trang lớn đã được triển khai tại khu vực này để chống lại cuộc tấn công khủng bố có thể xảy ra nhưng không nói rõ về những kẻ muốn tấn công đập.

Ở đây có hai rủi ro đã được thống nhất xác định đối với đập; đó là mô hình trầm tích vẫn chưa được kiểm tra kỹ và đập này nằm trên đứt gãy địa chấn. Trầm tích quá nhiều có thể che lấp các cửa xả nước, và nó có thể gây tổn hại cho đập trong một số tình huống. Đây chính là nguyên nhân gây ra sự cố của đập Bản Kiều năm 1975 đã làm hỏng 61 đập nước khác và gây ra cái chết của hơn 200.000 người. Ngoài ra, trọng lượng của đập và hồ chứa nước về lý thuyết có thể sinh ra địa chấn cảm ứng, giống như đã xảy ra với đập Katse ở Lesotho.
Những người không ủng hộ dự án này cho rằng việc xây dựng đập đã đánh đổi một cái giá quá lớn. Họ chỉ trích việc 1,3 triệu người phải chuyển khỏi nơi định cư bao đời nay và khẳng định hồ chứa nước phía sau con đập bị ô nhiễm nặng. 

Có tổng cộng 13 thành phố, 4.500 ngôi làng và 162 địa điểm khảo cổ học sẽ bị nhấn chìm dưới hồ chứa. Khi hoàn thành, hồ nhân tạo Tam Hiệp sẽ có chiều dài 660 km, phủ kín 632 km vuông đất và có mực nước cao hơn mực nước biển 175 mét.

Giới chức Trung Quốc cho biết, chi phí cho toàn bộ dự án Tam Hiệp Trường Giang hết khoảng 25 tỷ USD. Trong khi các nhà môi trường học ước tính số tiền này trên thực tế cao hơn gấp vài lần. Theo tờ China Daily, đã có hơn 100 người thiệt mạng trong quá trình xây dựng bức tường bê tông khổng lồ này.
Ngoài đập Tam Hiệp, các đập thuỷ điện lớn nhất trên thế giới hiện nay có Itaipu ở biên giới Brazil và Paraguay công suất 12.600 megawatt, Guri ở Venezuela công suất 10.000 megawatt, Grand Coulee ở Mỹ công suất 6.494 megawatt và Sayano-Shushensk ở Nga công suất 6.400 megawatt.
DKN

BACK TO TOP